Một số vấn đề cần lưu ý về kỹ năng hướng dẫn nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước

Ngày đăng : 29/06/2018
Xem cỡ chữ In trang

Nếu như Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 (sau đây viết tắt là Luật TNBTCNN 2009) quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước (sau đây viết tắt là QLNN) về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao (sau đây viết tắt là TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (sau đây viết tắt là VKSNDTC) quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng thì Luật TNBTCNN 2017 giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước (sau đây viết tắt là QLNN) về công tác bồi thường nhà nước (sau đây viết tắt là BTNN) trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án trên phạm vi cả nước và Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này . TANDTC, VKSNDTC trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình phối hợp với Chính phủ thực hiện các nội dung QLNN về công tác BTNN . Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện các nội dung QLNN về công tác BTNN . Như vậy, có thể thấy, nội dung QLNN về công tác BTNN của Luật TNBTCNN 2009 đã được sửa đổi, bổ sung trong Luật TNBTCNN 2017. Một trong các nội dung QLNN về công tác BTNN là hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN. Trong bài viết này, tác giả xin giới thiệu về một số lưu ý về kỹ năng hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN.

1. Một số vấn đề chung
Hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN” là hoạt động của cơ quan QLNN về công tác BTNN chủ động hoặc theo đề nghị của cơ quan nhà nước khác thực hiện việc hướng dẫn cơ quan đó áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sau đây viết tắt là TNBTCNN) để thực hiện công tác BTNN.
Về thẩm quyền hướng dẫn:
- Bộ Tư pháp hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án trên phạm vi cả nước (điểm c khoản 2 Điều 73 Luật TNBTCNN 2017).
- Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án trong phạm vi địa phương mình (điểm a khoản 3 Điều 73 Luật TNBTCNN 2017). Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ này (khoản 4 Điều 73 Luật TNBTCNN 2017).
- TANDTC, VKSNDTC, Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây viết tắt là Bộ), cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ Tư pháp trong thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN (khoản 1 Điều 74 và khoản 1 Điều 75 Luật TNBTCNN 2017).
2. Một số kỹ năng thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN
Để thực hiện nhiệm vụ này có hiệu quả, cần lưu ý một số kỹ năng thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN như sau: (i) phạm vi hướng dẫn; (ii) hình thức hướng dẫn; (iii) nội dung hướng dẫn; (iv) một số vấn đề khác, cụ thể như sau:
2.1. Về phạm vi hướng dẫn
Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong việc hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN. Tuy nhiên, các cơ quan này chỉ tập trung hướng dẫn những nội dung có liên quan đến lĩnh vực BTNN trong phạm vi quản lý của mình.
Ví dụ: Cục Thuế tỉnh A có công văn gửi cơ quan QLNN về công tác BTNN đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN, trong đó Cục Thuế tỉnh A phản ánh mình có khó khăn trong việc xác định trách nhiệm hoàn trả và xử lý kỷ luật đối với công chức là bà B. Cơ quan QLNN đã có công văn hướng dẫn Cục Thuế về cả hai nội dung là hoàn trả và xử lý kỷ luật đối với bà B.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ quan QLNN về công tác BTNN chỉ được hướng dẫn nội dung về trách nhiệm hoàn trả (căn cứ vào các quy định của Luật TNBTCNN, Nghị định số 68/2018/NĐ-CP). Nội dung về xử lý kỷ luật không thuộc chức năng nhiệm vụ của cơ quan QLNN về công tác BTNN vì vậy, việc hướng dẫn nội dung này cơ quan QLNN vê công tác BTNN cần hướng dẫn Cục Thuế liên hệ với các chuyên môn quản lý về vấn đề về tiền lương, ngạch, bậc công chức như Sở Nội vụ, các cơ quan Bảo hiểm xã hội trong trường hợp bà B đã nghỉ hưu, v.v. để đề nghị hướng dẫn.
2.2. Về hình thức hướng dẫn
a) Trên cơ sở yêu cầu, đề nghị hướng dẫn, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN thông qua các hình thức như bằng văn bản, trao đổi trực tiếp tại các buổi kiểm tra hoặc trao đổi trực tiếp tại tọa đàm, hội thảo, v.v. Tuy nhiên, để bảo đảm tính chính thống và chính xác của việc hướng dẫn, nên ưu tiên đề nghị, yêu cầu hướng dẫn bằng văn bản.
Ví dụ: Tại buổi Tọa đàm về Thực trạng thi hành Luật TNBTCNN do Lãnh đạo cơ quan QLNN về công tác BTNN chủ trì, có đại biểu đại diện cho Sở GD&ĐT tỉnh B có tham luận bằng văn bản và phát biểu tại Tọa đàm với nội dung đề nghị hướng dẫn công tác BTNN đối với vụ việc liên quan đến xác minh thiệt hại được bồi thường. Đồng chí Lãnh đạo cơ quan QLNN về công tác BTNN, chủ trì Tọa đàm đã hướng dẫn và trả lời đề nghị của Sở GD&ĐT tỉnh B.
b) Về phân loại và xử lý văn bản đề nghị, yêu cầu hướng dẫn
Văn bản gửi về cơ quan QLNN về công tác BTNN có thể có nhiều tên gọi khác nhau như công văn đề nghị phối hợp, công văn yêu cầu hướng dẫn, v.v. Tuy nhiên, khi tiếp nhận văn bản, cơ quan QLNN về công tác BTNN cần nghiên cứu, phân loại để xử lý văn bản căn cứ vào nội dung của công văn đến chứ không phải căn cứ vào tên gọi của công văn.
Ví dụ: Cơ quan QLNN về công tác BTNN nhận được công văn của Sở KH&ĐT tỉnh C về việc phối hợp thực hiện công tác BTNN. Tuy nhiên, nội dung của công văn lại đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường. Vì vậy, Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã xử lý văn bản nêu trên theo hướng có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ gửi Sở KH&ĐT.
2.3. Về nội dung hướng dẫn
a) Về tính đầy đủ của thông tin
Để có thể hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN hiệu quả, kịp thời và chính xác thì yêu cầu đầu tiên là “đầu vào” phải đầy đủ, có nguồn gốc rõ ràng. Do đó, trường hợp cơ quan nhà nước có đề nghị, yêu cầu hướng dẫn thì cần phải cung cấp cho cơ quan QLNN về công tác BTNN đầy đủ thông tin và thông tin phải bảo đảm chính xác, có nguồn gốc rõ ràng. Về phía cơ quan QLNN về công tác BTNN khi nhận được đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ, nếu thấy tài liệu, thông tin chưa đầy đủ hoặc có nhiều nội dung chưa rõ ràng thì yêu cầu cơ quan đề nghị hướng dẫn cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu chính xác có nguồn gốc rõ ràng mới thực hiện việc hướng dẫn. Qua đó sẽ hạn chế được những hướng dẫn nghiệp vụ thiếu toàn diện, thiếu chính xác và thiếu khách quan.
Ví dụ 1: Sở TN&MT tỉnh Q có công văn đề nghị cơ quan QLNN hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ công tác BTNN, trong đó, phản ánh việc cơ quan mình đang tiến hành xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với ông O là chuyên viên của Sở do có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho bà XL và đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ xác định mức hoàn trả đối với ông O. Quá trình xem xét, nghiên cứu Công văn đề nghị và hồ sơ gửi kèm, cơ quan QLNN nhận thấy Sở TN&MT tỉnh Q chưa cung cấp được giấy tờ, tài liệu chứng minh việc đã hoàn thành việc chi trả tiền bồi thường cho bà XL. Tài liệu duy nhất phản ánh thông tin về số tiền bồi thường là Quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật của Sở TN&MT tỉnh Q. Tuy nhiên, cơ quan QLNN vẫn tiến hành hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ xác định trách nhiệm hoàn trả và mức hoàn trả của ông O cho Sở TN&MT tỉnh Q. Như vậy, trong trường hợp này, cơ quan QLNN chưa bảo đảm tính đầy đủ của thông tin khi hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ xác định trách nhiệm hoàn trả vì để có cơ sở hướng dẫn thì cần phải yêu cầu Sở TN&MT tỉnh Q cung cấp giấy tờ, tài liệu chứng minh việc đã chi trả xong tiền bồi thường cho bà XL.
Ví dụ 2: Cục K tỉnh P gửi công văn đến cơ quan QLNN về công tác BTNN đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN về thủ tục phục hồi danh dự đối với ông P. Kèm theo công văn là toàn bộ hồ sơ vụ việc của ông P (bao gồm: văn bản yêu cầu bồi thường của ông P trong đó có nội dung yêu cầu phục hồi danh dự; Quyết định của Tòa án tỉnh P có nội dung ông P thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN, v.v.). Trên cơ sở hồ sơ tài liệu được cung cấp, cơ quan QLNN về công tác BTNN đã có đầy đủ thông tin để hướng dẫn Cục K về thủ tục phục hồi danh dự đối với ông P.
b) Về tính cụ thể của nội dung hướng dẫn
Việc hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN không được trả lời chung chung, phải bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, một nghĩa để cơ quan đề nghị hướng dẫn có thể hiểu chính xác, bảo đảm thuận lợi trong quá trình thực hiện.
Ví dụ 1: Sở XD tỉnh Đ gửi Công văn đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN, trong đó, Sở XD tỉnh Đ phản ánh mình có khó khăn trong việc xác định thẩm quyền xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với ông E - nguyên giám đốc Sở XD tỉnh Đ. Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã hướng dẫn Sở XD tỉnh Đ rằng Sở XD tỉnhĐ cần căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 66 để xác định thẩm quyền xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với ông E. Như vậy, cơ quan QLNN về công tác BTNN chưa bảo đảm tính cụ thể của nội dung hướng dẫn.
Ví dụ 2: Sở NN&PTNT tỉnh G gửi Công văn đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN, trong đó, Sở NN&PTNT tỉnh G phản ánh mình có khó khăn trong xác định vụ việc có thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hay không? Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã hướng dẫn Sở NN&PTNT rằng để xem xét vụ việc có thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hay không cần căn cứ vào quy định tại Điều 6 và 7 Luật TNBTCNN. Cụ thể, thứ nhất, vụ việc có đáp ứng đầy đủ 03 căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, gồm: (i) có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường (theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật TNBTCNN); (ii) có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi TNBTCNN và (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại. Thứ hai, còn thời hiệu yêu cầu bồi thường. Theo đó, thời hiệu yêu cầu bồi thường đối với các vụ việc phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. Thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường bao gồm: có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự làm cho người có quyền yêu cầu bồi thường không thể thực hiện được quyền yêu cầu bồi thường. Khoảng thời gian mà người bị thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa có người đại diện theo quy định của pháp luật hoặc người đại diện đã chết hoặc không thể tiếp tục là người đại diện cho tới khi có người đại diện mới. Như vậy, cơ quan QLNN về công tác BTNN đã hướng dẫn cho Sở NN&PTNT đầy đủ các nội dung để xác định vụ việc có thuộc phạm vi TNBTCNN hay không.
2.4. Về thống nhất quan điểm khi hướng dẫn nghiệp vụ
TNBTCNN là hoạt động giải quyết hậu quả của việc gây ra thiệt hại do có hành vi trái pháp luật gây ra trong khi thi hành công vụ. Chính vì vậy, việc thực hiện TNBTCNN có mối quan hệ chặt chẽ với việc thống nhất cách hiểu trong việc áp dụng pháp luật chuyên ngành khi thi hành công vụ. Trong trường hợp cơ quan QLNN thấy rằng cần thiết phải thống nhất ý kiến với các cơ quan có liên quan trước khi hướng dẫn nghiệp vụ thì cơ quan QLNN nên có sự phối hợp, trao đổi ý kiến với các cơ quan đó. Việc thống nhất ý kiến có thể được thực hiện thông qua các cuộc họp hoặc bằng văn bản trao đổi giữa các cơ quan.
Ví dụ 1: Sở TN&MT tỉnh H có Công văn đề nghị cơ quan QLNN hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ công tác BTNN, trong đó, phản ánh việc cơ quan mình đang tiến hành xem xét để thụ lý, giải quyết đối với YCBT của bà VL do bị thiệt hại trong hoạt động quản lý hành chính. Theo đó, bà VL là người được thi hành án trong vụ việc thi hành án dân sự và bà VL cho rằng, việc ông NC, Phó giám đốc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã có hành vi xác nhận việc đăng ký cho ông VH nhận chuyển nhượng toàn bộ lô đất theo Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 743396 của ông MQ (dù trước đó đã biết có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án giải quyết tranh chấp giữa bà VL và ông MQ) đã khiến cho cơ quan THADS huyện U không thể tiến hành kê biên quyền sử dụng đất của ông MQ để xử lý, bán đấu giá, trả tiền cho bà VL. Quá trình xem xét, nghiên cứu Công văn đề nghị và hồ sơ gửi kèm, cơ quan QLNN về công tác BTNN nhận thấy cần thống nhất quan điểm với cơ quan QLNN về đất đai, trong đó, hai cơ quan cần thống nhất quan điểm liên quan đến quy định của pháp luật về QLNN về đất đai để xác định hành vi xác nhận của ông NC có thuộc phạm vi TNBTCNN hay không. Như vậy, trong trường hợp này, cơ quan QLNN về công tác BTNN sẽ bảo đảm sự thống nhất về quan điểm trong áp dụng pháp luật chuyên ngành cũng như pháp luật về TNBTCNN để giải quyết bồi thường.
Ví dụ 2: Cục Hải quan tỉnh K đề nghị cơ quan QLNN về công tác BTNN hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN đối với việc xác định thiệt hại được bồi thường và trả lại tài sản. Về tài sản bị giữ, di chuyển ở kho ngoại quan thuộc vấn đề nghiệp vụ nên cơ quan QLNN về công tác BTNN cần trao đổi, thống nhất với Tổng cục Hải quan trước khi có văn bản hướng dẫn gửi Cục Hải quan tỉnh K, tuy nhiên, Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã không thực hiện nội dung này mà vẫn gửi văn bản hướng dẫn cho Cục Hải quan tỉnh K. Như vậy, có thể dẫn đến việc cơ quan QLNN về công tác BTNN và Tổng cục Hải quan sẽ không có quan điểm nhất quán về việc xác định thiệt hại được bồi thường và trả lại tài sản trong cùng một vụ việc.
2.5. Về tổng hợp khó khăn, vướng mắc trong hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN
Hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN là một trong các căn cứ để thực hiện việc theo dõi, nắm bắt tình hình thực hiện công tác BTNN. Vì vậy, cơ quan thực hiện việc hướng dẫn cần tổng hợp những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện để đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế và có các biện pháp để nâng cao hiệu quả thi hành Luật (nếu có) và để tổng hợp phục vụ công tác xây dựng báo cáo về công tác BTNN.
Ví dụ 1: Trên cơ sở đề nghị, yêu cầu hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN, cơ quan QLNN về công tác BTNN sau khi có văn bản hướng dẫn thì trên cơ sở hồ sơ, tài liệu vụ việc và văn bản đã hướng dẫn đó, thực hiện việc theo dõi để kịp thời nắm bắt tình hình yêu cầu bồi thường và giải quyết bồi thường.
Ví dụ 2: Trong một năm, cơ quan QLNN về công tác BTNN tỉnh M đã nhận được 03/05 văn bản của các cơ quan nhà nước đề nghị hướng dẫn việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường đối với vụ việc phát sinh trên địa bàn tỉnh. Căn cứ tình hình thực tiễn đó, cơ quan QLNN về công tác BTNN tại tỉnh M đã tổng hợp và báo cáo Bộ Tư pháp để đề xuất, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về xác định cơ quan giải quyết bồi thường, trong đó có giải pháp là sửa đổi, bổ sung về mặt thể chế đối với quy định này.
2.6. Về sử dụng văn bản hướng dẫn để thực hiện các nhiệm vụ các QLNN về công tác BTNN khác
a) Sử dụng kết quả hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN trong quá trình kiểm tra
Trên cơ sở văn bản mà cơ quan QLNN về công tác BTNN đã hướng dẫn, trong quá trình theo dõi, cho thấy, các cơ quan đã đề nghị hướng dẫn thực hiện công tác BTNN không hiệu quả thì cơ quan QLNN về công tác BTNN có thể tổ chức đoàn kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra, cơ quan QLNN về công tác BTNN phải dựa trên cơ sở văn bản đã hướng dẫn để tiến hành kiểm tra việc thực hiện công tác BTNN của cơ quan đã đề nghị hướng dẫn.
Ví dụ: Phòng TP quận I tỉnh N đã đề nghị cơ quan QLNN về công tác BTNN hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN đối với việc giải quyết bồi thường cho ông L. Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã có văn bản hướng dẫn, theo đó, trường hợp của ông L có đầy đủ căn cứ thuộc phạm vi TNBTCNN, còn thời hiệu yêu cầu bồi thường và thuộc thẩm quyền giải quyết của Phòng TP. Tuy nhiên, sau khi có văn bản hướng dẫn hơn năm tháng, cơ quan QLNN về công tác BTNN nhận được đơn của ông L, trong đó phản ánh việc chưa được giải quyết bồi thường. Trên cơ sở văn bản hướng dẫn đã gửi Phòng TP quận I và đơn của ông L, cơ quan QLNN về công tác BTNN đã có văn bản gửi Phòng TP quận I về việc kiểm tra công tác BTNN tại Phòng TP quận I. Như vậy, kết quả của việc hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN có thể được sử dụng để làm căn cứ cho việc kiểm tra công tác BTNN.
b) Sử dụng kết quả hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN trong quá trình đôn đốc
Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã có văn bản hướng dẫn đối với cơ quan đã đề nghị, yêu cầu được hướng dẫn mà sau đó nhận thấy, cơ quan đã đề nghị không thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan QLNN về công tác BTNN thì cơ quan QLNN về công tác BTNN có văn bản đôn đốc việc thực hiện công tác BTNN theo những nội dung đã hướng dẫn.
Ví dụ: Cục Thi hành án dân sự tỉnh G đã đề nghị cơ quan QLNN về công tác BTNN hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN đối với việc cấp phát kinh phí bồi thường và chi trả tiền bồi thường cho ông H. Cơ quan QLNN về công tác BTNN đã có văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, sau khi có văn bản hướng dẫn hơn năm tháng, cơ quan QLNN về công tác BTNN nhận được đơn của ông H trong vụ việc mà Cục Thi hành án dân sự tỉnh G đã đề nghị hướng dẫn, trong đó, ông H có phản ánh chưa nhận được tiền bồi thường. Trên cơ sở đơn của ông H, cơ quan QLNN về công tác BTNN đã có văn bản gửi Cục Thi hành án dân sự tỉnh G về việc đôn đốc thực hiện văn bản hướng dẫn mà cơ quan QLNN về công tác BTNN đã gửi để bảo đảm quyền và lợi ích cho ông H. Như vậy, kết quả của hoạt động hướng dẫn có thể được sử dụng làm căn cứ để thực hiện nhiệm vụ đôn đốc công tác BTNN khi nhận thấy việc hướng dẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ, hiệu quả.
Thay cho lời kết, hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN là hoạt động nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của cơ quan nhà nước trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về TNBTCNN qua đó thúc đẩy và bảo đảm tính đúng đắn, hợp pháp trong việc thực hiện công tác BTNN; đồng thời góp phần cung cấp thông tin để cơ quan QLNN về công tác BTNN nắm bắt, theo dõi tình hình thực hiện công tác BTNN. Bên cạnh đó, công tác này còn có vai trò trong việc thúc đẩy hoạt động quản lý nhà nước về công tác BTNN khác như theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, v.v. Tuy nhiên, việc hướng dẫn nghiệp vụ công tác BTNN cần được thực hiện một cách linh hoạt, tùy theo bối cảnh, vụ việc cụ thể để sử dụng hình thức phù hợp như trao đổi trực tiếp hoặc bằng văn bản./.
 
                                                                                                       Nguồn: Cục Bồi thường nhà nước.
                                                                                                       Tác giả: Trần Thị Thu Hằng.
 

Xem thêm »
Thăm và tặng quà bệnh nhi nghèo
>>Xem tất cả