Bình luận về một số vụ việc về hành vi vi phạm quyền con người qua đó tìm hiểu cơ chế bảo vệ quyền con người của Ấn Độ

Ngày đăng : 15/06/2018
Xem cỡ chữ In trang

Theo thống kê của Văn phòng Cao ủy của Liên Hợp quốc về quyền con người, ở cấp độ quốc gia, có nhiều mô hình cơ quan quyền con người khác nhau: Ủy ban Quốc gia về Quyền con người (chiếm 50%), Thanh tra Quốc hội – Ombudsman (chiếm 30%), hỗn hợp (chiếm 5%) như thiết lập cơ quan chuyên trách về một vấn đề quyền con người cụ thể như phụ nữ, trẻ em, (Hoa Kỳ) v.v. và dưới dạng thức khác (chiếm 7%) như Viện Quyền con người (Đức, Đan Mạch), Luật sư bảo vệ công dân (Albania) v.v . Để có thêm góc nhìn về mô hình cơ quan quốc gia về quyền con người trong thực tiễn thi hành, bài viết này đưa ra một số vụ việc phát sinh trong thực tế, qua đó tìm hiểu về cơ chế thành lập, hoạt động của một trong số cơ quan quốc gia về quyền con người trên thế giới được thành lập theo mô hình Hội đồng. Ấn Độ được coi là một trong những quốc gia có bề dày lịch sử và tồn tại lâu đời nhất trên thế giới và là một trong những quốc gia có nguồn văn bản lâu đời nhất giải quyết các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người dân (Ấn Độ giáo) . Vì vậy, việc tìm hiểu cơ chế bảo đảm quyền con người của Ấn Độ và thực tiễn thi hành thông qua một số vụ việc cụ thể sẽ cung cấp thêm góc nhìn về quyền con người.

I. Một số vụ việc 
1. Vụ việc 1
Theo vụ việc số 117/8/97-98[1] có nêu Hội đồng nhận được đơn của Shri Inder  P. Choudhrie, một công dân New Delhi ngày 12/5/1997 khiếu nại về việc bị công an bắt giam do nghi có liên quan đến vụ án giết người và trong quá trình bị giam giữ 13 ngày tại Shimla, anh chịu sự tra tấn dưới nhiều hình thức. Bên cạnh việc bị giam giữ bất hợp tác, bị tra tấn, anh còn bị áp dụng biện pháp “phát hiện nói dối” và bị tiêm thuốc vào tĩnh mạch mà chưa có sự đồng ý của anh. Anh đã khiếu nại lên Tòa cấp cao của Himachal Pradesh và sau đó là Tòa án tối cao nhưng không thành công. Hội đồng quyền con người đã từ chối can thiệp vào vấn đề này. Tuy nhiên, Hội đồng nhận định việc áp dụng biện pháp phát hiện nói dối chưa được quy định bởi Luật, vì vậy, Hội đồng cho rằng cần có hướng dẫn cho việc áp dụng biện pháp này. Sau khi xem xét cẩn thận, Hội đồng đã đưa ra một số hướng dẫn liên quan đến việc quản lý biện pháp phát hiện nói dối, gồm một số nội dung như: (i) Việc áp dụng biện pháp này phải được sự đồng thuận của bị cáo; (ii) Nếu bị cáo tự nguyện áp dụng biện pháp này thì phải cho phép bị cáo tiếp cận luật sư. Trách nhiệm của công an và luật sư là giải thích về tác động thể chất, tinh thần và pháp lý thông qua việc áp dụng biện pháp này đối với bị cáo; (iii) sự đồng thuận của bị cáo phải được thực hiện trước một thẩm phán; v.v. Hướng dẫn này của Hội đồng đã được gửi đến Tổng Thư ký của Nghị viện cũng như đến Hội đồng quyền con người ở các bang ngày 11/01/2000. Theo Điều 12 Luật Bảo vệ quyền con người 1993 của Ấn Độ thì Hội đồng quyền con người không chỉ có nghĩa vụ tìm hiểu, điều tra bất kỳ sự vi phạm quyền con người nào mà còn có nghĩa vụ rộng hơn trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người như: (i) thanh tra việc tổ chức thi hành các quy định của luật đặc biệt tại các trại giam để nghiên cứu về điều kiện sống của người bị giam giữ và kiến nghị với chính phủ về những biện pháp thực hiện; (ii) rà soát các biện pháp bảo vệ quyền trong Hiến pháp hoặc các luật hiện hành và đề xuất các biện pháp để thi hành các quy định này có hiệu quả; (iii) rà soát các yếu tố gây cản trở cho quyền con người, bao gồm các hành vi khủng bố và kiến nghị các biện pháp khắc phục phù hợp; (iv) nghiên cứu các điều ước và các tài liệu quốc tế khác về quyền con người và đưa ra kiến nghị để thực hiện các quy định này hiệu quả hơn; v.v. Chi tiết các chức năng và quyền hạn của Hội đông sẽ được nêu tại phần sau của bài viết.
Thông qua vụ việc nêu trên, có thể nhận thấy, một trong những chức năng quan trọng của Hội đồng quyền con người là đưa ra hướng dẫn để thực thi hiệu quả các quy định của hiến pháp và pháp luật cho các cơ quan nhà nước. Thực tiễn cho thấy, việc đưa ra hướng dẫn này giúp cơ quan nhà nước có liên quan “định hướng” và được “cầm tay chỉ việc” trong quá trình áp dụng các quy định chưa rõ hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp và luật.
2.  Vụ việc 2
Theo vụ việc số 2839/13/23/2015[2], một bệnh nhân nữ phải đối mặt với chấn thương tâm lý vì bị trả kết quả HIV sai do Bệnh viện tại Quận Indapur Taluka of Pune trả. Người phụ nữ này đã khiếu nại lên Hội đồng quyền con người và sau khi quan sát, Hội đồng nhận định người phụ nữ này là nạn nhân của hành vi vô ý của nhân viên y tế. Do đó, Hội đồng đã khuyến nghị nhân viên y tế cần bồi thường cho cô số tiền là 1,00,000/ Ruby (khoảng $1.500). Hiện nay, Hội đồng vẫn đang giám sát việc bồi thường của nhân viên y tế cho nạn nhân[3].
Thông qua vụ việc nêu trên, có thể nhận định, một trong những chức năng, quyền hạn của Hội đồng là việc giải quyết khiếu nại của công dân và đưa ra khuyến nghị về mức bồi thường đối với người gây thiệt hại. Vụ việc tương tự cũng đã xảy ra tại Việt Nam, tiêu biểu là vụ ông Nguyễn Hữu Khánh (sinh năm 1963, ngụ tại 165A Đốc Bình Kiều, khu 2 thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) bị kết luận nhầm kết quả xét nghiệm HIV[4], v.v..
II. Cơ chế bảo đảm quyền con người tại Ấn Độ
Tính đến nay, Ấn Độ đã gia nhập 6/9 Công ước quốc tế về quyền con người[5]. Để có thể chế bảo đảm thực hiện quyền con người, năm 1993, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua Luật Bảo vệ quyền con người, được sửa đổi năm 2006. Theo quy định của Luật, có 01 Hội đồng quyền con người quốc gia và 26 Hội đồng quyền con ngưởi ở các bang[6] có chức năng thực hiện vai trò bảo vệ và bảo đảm thực thi quyền con người.
1. Về việc thành lập Hội đồng quyền con người
1.1. Hội đồng quyền con người trung ương
Chính quyền trung ương thành lập một cơ quan được biết đến là Hội đồng quyền con người quốc gia. Hội đồng bao gồm: Một chủ tịch là Chánh án Tòa án tối cao; Một thành viên là hoặc từng là thẩm phán của Tòa án tối cao; Một thành viên là hoặc từng là thẩm phán của Tòa án cấp cao; Hai thành viên được chỉ định trong số những người có kiến thức, kinh nghiệm thực tế có liên quan đến quyền con người. Chủ tịch và các thành viên được bổ nhiệm bởi Tổng thống. Chủ tịch hoặc bất cứ thành viên nào có thể bị bãi nhiệm theo quyết định của Tổng thống Ấn Độ khi chứng minh người đó có hành vi không đúng mực hoặc mất năng lực hành vi theo phán quyết của Tòa án tối cao hoặc bị kết án hoặc kết tội và phải ngồi tù vì vi phạm đó theo Tổng thống có liên quan đến sự đồi bại về đạo đức.
Về nhiệm kỳ: Người được bổ nhiệm là Chủ tịch sẽ giữ chức vụ trong nhiệm kỳ năm năm kể từ ngày nhận chức vụ hoặc cho đến khi người đó bảy mươi tuổi, tùy theo thời điểm nào xảy ra trước. Người được bổ nhiệm là thành viên sẽ giữ chức vụ trong nhiệm kỳ năm năm kể từ ngày nhận chức và phải đủ điều kiện để được bổ nhiệm lại cho nhiệm kỳ năm năm tiếp theo, trừ trường hợp không có thành viên nào giữ chức vụ sau khi người đó đến tuổi bảy mươi.
1.2. Hội đồng quyền con người các bang
Chính phủ liên bang phải thành Hội đồng quyền con người tại bang đó. Thành phần của Hội đồng gồm: Chủ tịch là Chánh án Tòa án cấp cao; Một thành viên là thẩm phán hoặc từng là thẩm phán Tòa án cấp cao hoặc Tòa án cấp quận trong bang với kinh nghiệm tối thiểu 07 năm là thẩm phán cấp quận; Một thành viên được chỉ định trong số những người có kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực quyền con người; Thư ký của Hội đồng là trưởng bộ phận hành chính của Hội đồng liên bang và phải thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn phù hợp với chức năng mà Hội đồng liên bang trao cho người đó.
2. Về chức năng và quyền hạn của Hội đồng quyền con người
2.1. Giới hạn thẩm quyền của Hội đồng
Luật Bảo vệ quyền con người1993 (2006) quy định về các trường hợp giới hạn quyền của Hội đồng, theo đó, (i) Hội đồng trung ương không được điều tra các vấn đề mà Hội đồng liên bang hoặc các Hội đồng khác có quyền thực hiện chưa giải quyết theo quy định của pháp luật tại thời điểm đó; (ii) Hội đồng trung ương hoặc Hội đồng liên bang không được điều tra đối với các vấn đề đã được khẳng định là có vi phạm sau khi hết thời hạn được một năm kể từ ngày hành vi đó được xác định là vi phạm quyền con người.
2.2. Chức năng và quyền hạn của Hội đồng
Luật cũng quy định cụ thể chức năng, quyền hạn của Hội đồng, cụ thể, Hội đồng có chức năng và quyền hạn sau đây: (i) tự điều tra hoặc theo kiến nghị của nạn nhân hoặc bất cứ người đại diện nào của nạn nhân [hoặc theo chỉ định hoặc lệnh của tòa án] tham gia điều tra; (ii) xem xét khiếu nại liên quan đến vi phạm quyền con người hoặc hạn chế quyền con người; (iii) can thiệp trước sự thờ ơ trong việc bảo vệ quyền con người của công chức nhà nước; (iv) can thiệp vào quá trình thực hiện quyền con người vì bất cứ lý do nào trước khi phiên tòa đó phê chuẩn; (v) thanh tra, bất kể các quy định trong các luật khác có hiệu lực thi hành, các trại giam hoặc các cơ quan dưới sự điều hành của chính phủ liên bang, khi cá nhân bị giam giữ hoặc cư trú vì mục đích điều hành, cải cách hoặc bảo vệ, để nghiên cứu về điều kiện sống của cá nhân bị giam giữ hoặc cư trú và kiến nghị với chính phủ về những nội dung trên; (vi) rà soát các biện pháp bảo vệ quyền trong Hiến pháp hoặc các luật hiện hành và đề xuất các biện pháp để thi hành các quy định này có hiệu quả; (vii) rà soát các yếu tố gây cản trở cho quyền con người, bao gồm các hành động khủng bố và kiến nghị các biện pháp cải thiện; (viii) nghiên cứu các điều ước và các tài liệu quốc tế khác về quyền con người và đưa ra kiến nghị để thực hiện các quy định này hiệu quả hơn; (ix) thực hiện và thúc đẩy nghiên cứu trong lĩnh vực quyền con người; (x) phổ biến các quy định về quyền con người đến các tầng lớp trong xã hội và nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ quyền con người thông qua các xuất bản phẩm, phương tiện truyền thông, hội thảo và các phương tiện thích hợp khác; (xi) khuyến khích sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực quyền con người; (xii) Các chức năng khác được xem là cần thiết để bảo vệ quyền con người.
Như vậy, có thể thấy, chức năng của Hội đồng rất rộng, tham gia vào quá trình lập pháp, tư pháp và đặc biệt trong hoạt động hành pháp.
3. Cách thức thực hiện chức năng và quyền hạn
Luật Bảo vệ quyền con người quy định về cách thức thực hiện các chức năng và quyền hạn, cụ thể một số cách thức như sau:
(i) Hành động để thực hiện quyền liên quan đến điều tra: Hội đồng, trong khi điều tra để giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật này, có đầy đủ quyền của tòa dân sự khi xét xử vụ kiện theo quy định của Luật Tố tụng dân sự năm 1908, một số quyền cụ thể như sau: Triệu tập và yêu cầu sự có mặt của nhân chứng và thẩm vấn lời tuyên thệ của nhân chứng; Phát hiện và đưa ra bất cứ tài liệu nào; Nhận chứng cứ từ các bản khai; Yêu cầu bất cứ hồ sơ công nào hoặc bản sao của hồ sơ đó từ tòa án hoặc cơ quan; Ban hành lệnh để điều tra nhân chứng hoặc tài liệu; v.v.
(ii) Hành động để thực hiện quyền liên quan đến khuyến nghị: Khuyến nghị cho Chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền có liên quan về các giai đoạn của việc điều tra cho mà Hội đồng cho rằng cần thiết. Hội đồng phải gửi một bản sao báo cáo điều tra mà Hội đồng xây dựng cùng với những kiến nghị của Hội đồng cho Chính phủ có liên quan trong thời hạn một tháng hoặc thời hạn kéo dài nhất định được Hội đồng cho phép, chuyển tiếp những bình luận về báo cáo, bao gồm các hành động đã thực hiện hoặc dự kiến thực hiện cho Hội đồng.
(iii) Hành động để thực hiện quyền liên quan đến bồi thường: Thực hiện thanh toán cho việc bồi thường hoặc thiệt hại cho người khiếu nại hoặc nạn nhân hoặc thành viên của gia đình người khiếu nại hoặc nạn nhân khi Hội đồng cho là cần thiết. Khuyến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc bồi thường, mức bồi thường v.v.
Tuy nhiên, đối với các đối tượng có liên quan đến lực lượng vũ trang thì Luật cũng quy định cụ thể: khi giải quyết khiếu nại về vi phạm quyền con người của các thành viên của lực lượng vũ trang, Hội đồng phải tuân thủ các thủ tục như sau: (i) có thể do tự Hội đồng này thấy cần thiết hoặc khi nhận được kiến nghị, tìm kiếm báo cáo từ Chính phủ trung ương; (ii) sau khi nhận được báo cáo, Hội đồng hoặc không thực hiện việc khiến nại hoặc, tùy trường hợp, đưa ra kiến nghị đối với Chính phủ; (iii) Chính phủ Trung ương phải thông báo cho Hội đồng về việc đã đưa ra kiến nghị trong thời hạn ba tháng hoặc thời hạn kéo dài hơn mà Hội đồng cho phép; (iv) Hội đồng phải ban hành báo cáo cùng với những kiến nghị đã đề xuất lên Chính phủ trung ương và các hành động Chính phủ đã thực hiện đối với kiến nghị của Hội đồng; (v) Hội đồng phải cung cấp một bản sao báo cáo đã được phát hành theo quy định của Luật cho người nộp đơn hoặc người đại diện của người đó.
4. Trách nhiệm báo cáo của Hội đồng
Hội đồng phải trình báo cáo hàng năm cho Chính phủ trung ương và Chính phủ liên bang có liên quan và trong thời hạn cho phép trình báo cáo đặc biệt về các vấn đề mà Hội đồng cho là khẩn cấp hoặc cần thiết thực hiện mà không thể trì hoãn đến kỳ báo cáo hàng năm. Chính phủ trung ương và Chính phủ liên bang, tùy từng trường hợp, phải trình báo cáo hàng năm và báo cáo đặc biệt của Hội đồng lên Nghị viện hoặc đại diện cơ quan lập pháp liên bang, tùy theo từng trường hợp, phù hợp với biên bản hành động hoặc dự kiến hành động trong kiến nghị của Hội đồng và lý do không chấp nhận kiến nghị (nếu có).
5. Về kinh phí hoạt động và quyết toán sổ sách của Hội đồng quyền con người
5.1. Về kinh phí hoạt động
Chính phủ trung ương căn cứ vào biểu quyết của Quốc hội phù hợp với pháp luật thay mặt cho Quốc hội chi cho Hội đồng khoản tiền mà Chính phủ trung ương cho là phù hợp để phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo quy định của Luật Bảo vệ quyền con người. Hội đồng sử dụng khoản tiền mà Hội đồng cho là phù hợp để thực hiện chức năng của mình theo quy định của Luật. Tương tự đối với Hội đồng ở các bang.
5.2. Về quyết toán và kiểm toán
Ở Trung ương: Trên cơ sở kinh phí hoạt động, Hội đồng có trách nhiệm duy trì sổ sách và các bản lưu có liên quan và chuẩn bị bản sao kê tài khoản theo mẫu quy định bởi Chính phủ trung ương có sự tham gia ý kiến của Tổng Kiểm soát và Kiểm toán của Ấn Độ. Sổ sách của Hội đồng phải bị kiểm toán bởi Tổng Kiểm soát và Kiểm toán trong khoảng thời gian mà Tổng Kiểm soát và Kiểm toán cho là phù hợp và bất cứ chi phí nào phát sinh từ việc kiểm toán đó sẽ được thanh toán bởi Hội đồng cho Tổng Kiểm soát và Kiểm toán.
Tổng Kiểm soát và Kiểm toán viên hoặc bất cứ người nào được Tổng Kiểm soát và Kiểm toán viên bổ nhiệm phù hợp với việc kiểm toán sổ sách của Hội đồng theo quy định của Luật có quyền và nghĩa vụ tương ứng, thẩm quyền đối với việc kiểm toán của Tổng Kiểm soát và Kiểm toán viên có liên quan đến việc kiểm toán của sổ sách của Chính phủ và đặc biệt, người đó có quyền yêu cầu phát hành sổ sách kế toán, sổ sách, các biên lai có liên quan và các tài liệu, giấy tờ khác và có quyền kiểm tra bất cứ văn phòng nào của Hội đồng.
Sổ sách của Hội đồng được chứng nhận bởi Tổng Kiểm soát và Kiểm toán viên hoặc bất cứ người nào được Tổng Kiểm soát và Kiểm toán viên ủy quyền thực hiện, cùng với báo cáo kiểm toán phải được Hội đồng gửi đến Chính phủ trung ương và Chính phủ trung ương phải trình lên Quốc hội ngay sau khi Chính phủ trung ương nhận được sổ sách và báo cáo. Tương tự được thực hiện ở cấp bang.
III. Bình luận
Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định cụ thể quyền con người tách biệt với quyền công dân. Để Nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của con người của công dân thì bên cạnh các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật làm tiền đề cho việc bảo đảm phát triển quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện và nâng cao cơ chế kiểm tra, giám sát và tham gia của nhân dân vào việc quản lý của nhà nước; v.v. thì việc xây dựng và thành lập một cơ quan độc lập, chuyên trách – thiết chế để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là cần thiết. Hiện nay, chức năng bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được giao cho nhiều cơ quan thực hiện, ví dụ: Chính phủ có vai trò xây dựng thể chế, quản lý các mặt của đời sống xã hội, phát hiện và xử lý vi phạm liên quan đến việc thực hiện các quyền cơ bản của con người[7] v.v.; Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử công bằng và công khai, khôi phục lại quyền và lợi ích của cá nhân tổ chức, v.v.
Tuy nhiên, dù cơ quan quốc gia về quyền con người được hình thành theo mô hình nào thì trong quá trình nghiên cứu, thành lập cũng cần đặt ra một số nguyên tắc của cơ quan quyền con người quốc gia như sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính độc lập. Sự độc lập của cơ quan này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc, một mặt tạo lòng tin của người dân, mặt khác, để giám sát, kịp thời phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm quyền con người do các cơ quan, người thi hành công vụ gây ra.
Thứ hai, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả. Ngày 17/4/2015, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trong số các giải pháp, có nội dung “Từng cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập phải xây dựng kế hoạch tinh giản biên chế trong 7 năm (2015 - 2021) và từng năm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để tổ chức thực hiện. Trong đó, phải xác định tỉ lệ tinh giản biên chế đến năm 2021 tối thiểu là 10% biên chế của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn thu sự nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh chuyển đổi thêm 10% số lượng viên chức sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và xã hội hóa, thay thế nguồn trả lương từ ngân sách nhà nước bằng việc trả lương từ nguồn thu sự nghiệp”. Do đó, trong tình hình tinh giản biên chế hiện nay, cần thiết phải nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quản bảo đảm tinh gọn và hiệu quả, trên cơ sở thu gọn đầu mối các cơ quan có chức năng bảo vệ quyền con người hiện nay thành một cơ quan thống nhất và theo nguyên tắc nâng cấp và kiện toàn những cơ quan đó để hạn chế phát sinh biên chế, bộ máy.
Thứ ba, về tài chính, để hạn chế sự ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng của cơ quan này, nguồn tài chính chủ yếu cần được cấp một cách độc lập từ nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, có thể, có thể huy động thêm từ nguồn của cá nhân, tổ chức.
Thứ tư, bảo đảm phản ứng nhanh, kịp thời trước những hành vi vi phạm về quyền con người. Việc phúc đáp này sẽ góp phần nâng cao vai trò, tạo dựng thêm uy tín của nhà nước trước nhân dân. Mặt khác, tạo sức ép lên sự vận hành có hiệu quả và kịp thời hơn của các cơ quan nhà nước khi phát sinh hành vi vi phạm quyền con người./.
 
                                                                                                             Nguồn: Cục Bồi thường nhà nước.
                                                                                                             Tác giả: Trần Thị Thu Hằng.
 

[2] Báo cáo tình hình về quyền con người Ấn Độ 2013,  Trang 111.
[3] Báo cáo tình hình quyền con người Ấn Độ 2013,  Trang 111.
[7] Viện Khoa học pháp lý, Vai trò của Bộ Tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Số 1 năm 2017, trang 5,6.

Xem thêm »
Thăm và tặng quà bệnh nhi nghèo
>>Xem tất cả