NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017)

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã chính thức quy định 01 chương riêng về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (TNHS), bao gồm 04 trường hợp được kế thừa từ BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và 03 trường hợp mới được bổ sung. Tuy nhiên, trước và sau khi có BLHS năm 2015, về khái niệm, phạm vi các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn chưa được nhận thức thống nhất, về nội dung chưa được quy định rõ ràng, thiếu tính khả thi... Chính vì vậy, bài viết làm rõ khái niệm, phạm vi, nội dung các trường hợp loại trừ TNHS góp phần nhận thức thống nhất, đồng thời kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tính khả thi khi áp dụng. Từ khóa: Loại trừ TNHS, Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết.

I. Về khái niệm, phạm vi những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Nhằm tạo hành lanh pháp lý an toàn để khuyến khích công dân an tâm, tích cực tham gia phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, khuyến khích tham gia hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung[1], Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (gọi tắt là BLHS năm 2015) đã chính thức quy định các trường hợp loại trừ TNHS thành 01 chương riêng, với phạm vi bao gồm 07 trường hợp, trong đó, kế thừa 04 trường hợp trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) (Sự kiện bất ngờ (Điều 20), tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21), phòng vệ chính đáng (Điều 22), tình thế cấp thiết (Điều 23)), bổ sung 03 trường hợp mới (Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24), rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25) và thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26). Đây là một trong những điểm mới nổi bật của BLHS năm 2015.
Qua nghiên cứu nhận thấy trước và sau khi BLHS năm 2015 được ban hành, từ tên gọi, khái niệm, bản chất pháp lý đến phạm vi các trường hợp loại trừ TNHS được nhiều chuyên gia, nhà khoa học nghiên cứu, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất, gọi tên các trường hợp loại trừ TNHS là các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại và bao gồm 02 trường hợp: (i) phòng vệ chính đáng và (ii) tình thế cấp thiết[2].
Quan điểm thứ hai, với tên gọi những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, và cho rằng đó là “tình tiết được quy định trong BLHS mà khi có những tình tiết ấy thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội phạm[3], bao gồm 10 trường hợp: (i) Sự kiện bất ngờ; (ii) gây thiệt hại nhưng chưa đủ tuổi chịu TNHS; (iii) gây thiệt hại trong tình trạng không có năng lực TNHS; (iv) tính chất nguy hiểm cho xã hội ở mức độ không đáng kể; (v) phòng vệ chính đáng; (vi) tình thế cấp thiết; (vii) chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh cấp trên; (viii) sự rủi ro (mạo hiểm) chấp nhận được (có căn cứ) về kinh tế hoặc nghề nghiệp; (ix) tình trạng bất khả kháng và (x) sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại trong khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Quan điểm thứ ba, cho rằng loại trừ TNHS là trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu TNHS về hành vi này. Theo quan điểm này, phạm vi các trường hợp được coi là trường hợp loại trừ TNHS là khá rộng, không chỉ bao gồm các trường hợp như quan điểm thứ hai, mà còn bao gồm: (i) Gây thiệt hại cho xã hội trong tình trạng say hoặc dùng chất kích thích mạnh khác như do bị ép buộc dẫn đến mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; (ii) hành vi phạm tội thái quá của người thực hành trong đồng phạm; (iii) giúp người đã thành niên đang mắc bệnh hiểm nghèo tự sát theo yêu cầu tự nguyện; (iv) người bị ép buộc đưa hối lộ nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác[4].
Quan điểm thứ tư, cho rằng loại trừ TNHS là những trường hợp người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội nhưng được pháp luật xác định không phải chịu TNHS do (1) tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; hoặc (2) thiếu yếu tố của tội phạm; hoặc (3) có căn cứ hợp pháp của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bao gồm 06 trường hợp: (i) hành vi có tính chất nguy hiểm chưa đáng kể, (ii) sự kiện bất ngờ, (iii) chưa đủ tuổi chịu TNHS, (iv) tình trạng không có năng lực TNHS, (v) phòng vệ chính đáng và (vi) tình thế cấp thiết[5].
Quan điểm thứ năm, cho rằng loại trừ TNHS là trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội, nhưng theo pháp luật họ không bị truy cứu TNHS, bao gồm 06 trường hợp như quan điểm thứ tư và trường hợp miễn TNHShết thời hiệu truy cứu TNHS [6]… Thậm chí, có quan điểm còn cho rằng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội bên cạnh các trường hợp như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ cũng là trường hợp loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi[7]
Như vậy, mặc dù đã có sự thống nhất ở một số nội dung cơ bản như: đều xác định được hậu quả pháp lý các trường hợp loại trừ TNHS là không phải chịu TNHS, đều xác định được Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết là các trường hợp loại trừ TNHS, tuy nhiên, về cơ bản từ khái niệm đến phạm vi các trường hợp loại trừ TNHS còn có sự nhận thức chưa thống nhất, về vấn đề này, chúng tôi làm rõ ở một số góc độ sau:
Dưới góc độ lịch sử lập pháp hình sự, các trường hợp loại trừ TNHS được ghi nhận khá sớm, đánh dấu bằng sự ra đời của Chỉ thị số 07/HS-2 ngày 22/12/1983 của Tòa án nhân dân tối cao về việc chỉ đạo Tòa án các cấp thống nhất xét xử hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ[8]. Tiếp đó, trong lần pháp điển hóa BLHS đầu tiên, BLHS năm 1985[9] đã quy định 04 trường hợp được coi là trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: (i) Phòng vệ chính đáng (Điều 13), (ii) tình thế cấp thiết (Điều 14), (iii) sự kiện bất ngờ (Điều 11) và (iv) tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 12) nằm trong chương Tội phạm (chương III). BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tiếp tục quy định 04 trường hợp nói trên trong chương Tội phạm (chương III). BLHS năm 2015, quy định về các trường hợp loại trừ TNHS được hoàn thiện với việc chính thức quy định thống nhất một chương – Chương các trường hợp loại trừ TNHS (chương IV) bao gồm 04 trường hợp như trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), bổ sung thêm 03 trường hợp mới, việc quy định này là cần thiết, đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới.
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, chế định các trường hợp loại trừ TNHS được quy định trong pháp luật hình sự của nhiều quốc gia, tuy nhiên, phạm vi các trường hợp được coi là trường hợp loài trừ TNHS cũng sự khác nhau nhất định. Bộ luật hình sự Trung Quốc (năm 1997) quy định 4 trường hợp loại trừ TNHS, bao gồm: (i) sự kiện bất ngờ (Điều 16), (ii) hành vi nguy hiểm do người mắc bệnh tâm thần thực hiện (Điều 18), (iii) phòng vệ chính đáng (Điều 20) và (iv) tình thế cấp thiết (Điều 21) thuộc Chương tội phạm và TNHS[10]. Bộ luật hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức có quy định về phòng vệ khẩn cấp và tình trạng khẩn cấp tại mục thứ tư[11]. Bộ luật hình sự cộng hòa Pháp[12] xác định các trường hợp như: (i) phòng vệ chính đáng, (ii) tình thế cấp thiết, (iii) người mắc bệnh rối loạn tâm thần hoặc rối loạn thần kinh khiến không nhận thức hoặc không kiểm soát được hành vi của mình, (iv) hành động dưới sự chi phối của một sức mạnh hoặc một sự cưỡng bức, (v) do lầm tưởng mình có quyền thực hiện một cách hợp pháp, (vi) thực hiện hành vi do lệnh của nhà chức trách hợp pháp là các trường hợp loại trừ TNHS (miễn TNHS)[13]... Bộ luật hình sự các quốc gia khi quy định về các trường hợp loại trừ TNHS có xu hướng ngày càng phát triển, tức là ngày càng được bổ sung thêm cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia[14], ví dụ, BLHS năm 1960 của Liên bang Nga, bên cạnh các tình tiết loại trừ có tính chất phổ biến như: (i) phòng vệ cấp thiết, (ii) tình thế cấp thiết, (iii) sự kiện bất ngờ. Đến BLHS năm 1997 đã bổ sung một số trường hợp loại trừ TNHS mới và tách riêng thành 01 chương riêng với tên gọi các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi như: (i) gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội, (ii) cưỡng bức thân thể hoặc tinh thần, (iii) sự rủi ro chính đáng và (iv) thi hành mệnh lệnh hoặc chỉ thị.
Dưới góc độ pháp luật thực định, Bộ luật hình sự năm 2015 đã chính thức quy định 07 trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: (i) Sự kiện bất ngờ; (ii) tình trạng không có năng lực TNHS; (iii) phòng vệ chính đáng; (iv) tình thế cấp thiết; (v) gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; (vii) rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ và (vii) thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Có thể phân chia các tình tiết loại trừ TNHS thành 02 nhóm:
Nhóm thứ nhất, nhóm các trường hợp loại trừ TNHS do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên không có tội phạm, do vậy, đương nhiên người thực hiện hành vi sẽ không phải chịu TNHS, hay nói cách khác, đây là nhóm các trường hợp phản ánh không có cơ sở của TNHS, bao gồm 02 trường hợp: (i) Sự kiện bất ngờ (đó là trường hợp chủ thể không có lỗi, hành vi thực hiện trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi, đây là trường hợp thiếu yếu tố “lỗi” trong mặt chủ quan của tội phạm); (ii) tình trạng không có năng lực TNHS (đó là trường hợp chủ thể không đáp ứng được điều kiện về năng lực TNHS, hành vi được thực hiện trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, đây là trường hợp thiếu điều kiện về năng lực chủ thể trong chủ thể của tội phạm).
Nhóm thứ hai, nhóm các trường hợp loại trừ TNHS có các dấu hiệu của tội phạm, nhưng có “tình tiết” khác nên BLHS xác định không phải là tội phạm, bao gồm 05 trường hợp: (i) Phòng vệ chính đáng (tình tiết: vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức); (ii) tình thế cấp thiết (tình tiết: vì muốn tránh nguy cơ thực tế gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức); (iii) gây thiệt trong khi bắt giữ người phạm tội (tình tiết: để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu công tcs đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm); (iv) rủi ro trong hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ[15] (tình tiết: thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong khoa học công nghệ) và (v) thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (tình tiết: thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đảm bảo tính kỷ luật, sức mạnh trong quân đội). Những trường hợp thuộc nhóm này có các dấu hiệu của tội phạm, thậm chí có thể đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có “tình tiết” được BLHS quy định nhằm tạo điều kiện, khuyến khích công dân thực hiện vì những lợi ích chung cho nhà nước, xã hội, cơ quan, tổ chức, người khác hoặc của chính mình, và chính những “tình tiết” này đã loại trừ đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, do vậy làm cho hành vi gây thiệt hại trở thành hợp pháp và được xác định không phải là tội phạm, đồng thời, qua đó loại trừ TNHS của người có hành vi gây thiệt hại[16]. Đây là nhóm trường hợp làm mất đi cơ sở của TNHS. Như vậy, về bản chất pháp lý, các trường hợp loại trừ TNHS thuộc nhóm này khác hoàn toàn với các trường hợp loại trừ TNHS thuộc nhóm thứ nhất, giữa các trường hợp làm mất đi cơ sở của TNHS với các trường hợp không có cơ sở của TNHS.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, loại trừ được giải thích là “làm cho mất đi, hết đi cái xấu, cái đối lập[17], còn TNHS được giải thích là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất về hành vi phạm tội của mình[18]. TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội. Chỉ khi nào có tội phạm thì mới có TNHS, ngược lại không có tội phạm thì không có TNHS. Theo logic đó, có thể hiểu loại trừ TNHS là làm mất đi hậu quả pháp lý lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội.  
Từ những phân tích trên, về khái niệm, chúng tôi cho rằng các trường hợp loại trừ TNHS là những trường hợp được quy định trong BLHS làm mất cơ sở của TNHS và người có hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp này sẽ không phải chịu TNHS, về phạm vi, các trường hợp loại trừ TNHS bao gồm 05 trường hợp: (i) Phòng vệ chính đáng, (ii) tình thế cấp thiết, (iii) gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, (iv) rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ và (v) thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên.
II. Nội dung các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
2.1. Sự kiện bất ngờ
Điều 20 BLHS năm 2015 quy định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu TNHS.
So với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), quy định về sự kiện bất ngờ trong BLHS năm 2015 không có sự thay đổi về bản chất pháp lý, mà chỉ là sự sửa đổi, bổ sung về mặt kỹ thuật lập pháp theo hướng quy định trực tiếp một người thực hiện hành vi được coi là sự kiện bất ngờ và hậu quả pháp lý của nó. Theo đó, sự kiện bất ngờ là trường hợp gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội nhưng người gây ra hậu quả thiệt hại đó không có lỗi vì họ không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi gây hậu quả. Bản chất pháp lý của sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi không có lỗi do họ không tự lựa chọn thực hiện hành vi gây thiệt hại. Họ đã không thấy trước được tính chất (hậu quả) nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Hoàn cảnh khách quan không cho phép họ có thể thấy trước hậu quả của hành vi và họ cũng không có nghĩa vụ (bị buộc) phải thấy trước việc gây ra hậu quả đó[19]. Như vậy, dấu hiệu có lỗi - cơ sở để xem xét một hành vi có là tội phạm là không, và có cần thiết áp dụng các biện pháp tác động về mặt pháp lý hình sự không đã không được thỏa mãn.
Trong sự kiện bất ngờ, có 02 loại trường hợp gây thiệt hại mà không thấy trước được hậu quả thiệt hại đó là: (i) không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả thiệt hại và (ii) không có điều kiện để thấy trước mặc dù có nghĩa vụ phải thấy trước. Như vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể đã không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình đã gây ra là do khách quan. Đây chính là điểm khác biệt so với các trường hợp như sự kiện bất khả kháng, tình trạng không thể khắc phục được hoặc đối với trường hợp lỗi vô ý vì cẩu thả.
2.2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS.
So với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong BLHS năm 2015 có sự sửa đổi đó là bỏ quy định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại điều luật mà quy định thống nhất về việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tại Điều 49 BLHS năm 2015.
Theo quy định của điều luật, tình trạng không có năng lực TNHS có thể được hiểu là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Như vậy, có 02 dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS, cụ thể: (i) Dấu hiệu y học (mắc bệnh, đó là người ở trong tình trạng không có năng lực TNHS là người mắc bệnh tâm thần hoặc bênh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần), đây là điều kiện cần; (ii) Dấu hiệu tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển, đó là người không có năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi gây thiệt hại và họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó), đây là điều kiện đủ. Cả 02 dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngược lại, một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.
Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra hoặc mất khả năng điều kiển hành vi của mình mới được coi là không có năng lực TNHS. Có nghĩa rằng họ phải thỏa mãn đồng thời 02 dấu hiệu trên, trong đó, dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân là dấu hiệu tâm lý có vai trò là kết quả nhưng không có nghĩa mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển. Năng lực này có mất hay không, không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi nguy hiểm nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện.[20]
2.3. Phòng vệ chính đáng
Khoản 1 Điều 22 BLHS năm 2015 quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
So với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 22 BLHS năm 2015 về phòng vệ chính đáng chỉ có sự sửa đổi về mặt kỹ thuật, theo đó, đã đảo cụm từ “vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác” lên trước cụm từ “lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức”. Việc sửa đổi này là phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013, ưu tiên bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn các dấu hiệu sau: (i) Có hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm quyền hoặc lợi ích chính đáng của người phòng vệ, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tổ chức (cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng) và (ii) Hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho người xâm phạm là cần thiết (nội dung và phạm vi của phòng vệ chính đáng);
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS theo quy định của Bộ luật này. Đây là trường hợp người phòng vệ do đánh giá sai tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, “Người phòng vệ đã dùng những phương tiện và phương pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người xâm hại mà tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ thể chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó[21]. Người phòng vệ trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS do lỗi vượt quá của mình. Tuy nhiên, TNHS của họ được giảm nhẹ hơn so với các trường hợp bình thường. Mức độ TNHS được giảm nhẹ nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ vượt quá giới hạn phòng vệ và các trường hợp giảm nhẹ khác.
2.4. Tình thế cấp thiết
Khoản 1 Điều 23 BLHS năm 2015 quy định: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. Đây là tình thế mà người đứng trước sự đe dọa đến một lợi ích được pháp luật bảo vệ, và để bảo vệ lợi ích này, người đó không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại (nhỏ hơn) cho một lợi ích khác được pháp luật bảo vệ. So với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), cũng giống như phòng vệ chính đáng, quy định về tình thế cấp thiết tại Điều 23 BLHS năm 2015, cũng chỉ có sự sửa đổi về mặt kỹ thuật đảo cụm từ  “vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác” lên trước cụm từ “lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức”.
Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu TNHS thì phải bảo đảm đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế xâm phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ (tức là lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của bản thân người thực hiện hành vi hay của người khác); (ii) Hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để tránh thiệt hại đang bị đe dọa xảy ra; (iii) Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là trường hợp một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích của Nhà nước, của tổ chức mà không còn cách nào khác là gây thiệt hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Cũng giống như vượt quá yêu cầu của phòng vệ chính đáng, người có hành vi gây thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì cũng phải chịu TNHS. Khoản 2 Điều 23 khẳng định: trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu TNHS. Mặc dù, vượt quá tình thế cấp thiết phải chịu TNHS nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Khoản 1 Điều 51 BLHS có quy định một cách cụ thể, rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là một trong những tình tiết để giảm nhẹ TNHS. Đây cũng là tình tiết giảm nhẹ TNHS và khả năng của Toà án khi quyết định hình phạt có thể coi là tình tiết giảm nhẹ. Đó là cơ sở để giảm nhẹ hình phạt trong phạm vi của khung luật tương ứng.
2.5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS mới được bổ sung trong BLHS, đó là hành vi của người để bắt giữ người phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Hành vi bắt giữ tội phạm trong trường hợp này không phải là tội phạm. Việc quy định trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS, một mặt, phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm là phải dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động toàn thể xã hội chung sức, chung lòng phát huy tính tích cực của công dân trong cuộc đấu tranh này[22]. Mặt khác, khuyến khích, phát huy tinh thần chủ động đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội và bắt giữ kịp thời những người đang lẩn trốn sự trừng trị của pháp luật, cũng như là "minh chứng về ý thức pháp luật và tính tích cực đối với trách nhiệm công dân của người bắt giữ..."[23].
Để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS, thì hành vi bắt giữ phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) Hành vi bắt giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội; (ii) Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối cùng, không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội; (iii) Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết.
Vượt quá yêu cầu của gây thiệt hại trong bắt giữ tội phạm đó là trường hợp người có hành vi bắt giữ tội phạm đã gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết và người gây thiệt hại trong trường hợp này phải chịu TNHS.
2.6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng là trường hợp loại trừ TNHS mới được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi của một người đã gây thiệt hại khi thực hiện việc nghiên cứu, thủ nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới sau khi đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thiệt hại xảy ra Hành vi gây thiệt trong trường hợp nói trên không phải là tội phạm. Việc quy định, bổ sung trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới công nghệ, tạo động lực, động viên sự sáng tạo của các nhà khoa học, nhà sản xuất.
Để coi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS, hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) Hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem lại lợi ích chung cho xã hội; (ii) Lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; (iii) Người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa[24]. Trong đó, điều kiện thứ ba là điều kiện quan trọng nhất, chủ thể thể hiện tính tuân thủ pháp luật, cũng như sự thận trọng trong việc cân nhắc các khả năng có thể xảy ra, lường trước những hậu quả xấu để chuẩn bị các biện pháp phòng ngừa[25]. Chính vì vậy, mà đoạn 2 Điều 25 BLHS năm 2015 khẳng định người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu TNHS.
2.7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên
Thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS mới được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh sau khi đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không phải chịu TNHS. Việc quy định này sẽ góp phần đảm bảo tuân thủ tuyệt đối, triệt để nguyên tắc "cấp dưới phải phục tùng cấp trên" đối với mệnh lệnh, chỉ thị hay quyết định trong lực lượng vũ trang nhân dân[26], đảm bảo tính kỷ luật, sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Để coi thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS, thì hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) mệnh lệnh mà người có hành vi gây thiệt hại thi hành phải là mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (người có thẩm quyền) thuộc lực lượng vũ trang nhân dân[27]; (ii) mục đích của việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang phải nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; (iii) người có hành vi gây thiệt hại đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó; (iv) việc thi hành mệnh lệnh này không thuộc trường hợp phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 421), tội chống loài người do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 422), tội phạm chiến tranh do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 423). Như vậy, hành vi gây thiệt hại thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên thỏa mãn các điều kiện nói trên sẽ được coi là trường hợp loại trừ TNHS và người thực hiện hành vi gây thiệt hại này sẽ không phải chịu TNHS. Tuy nhiên, đối với người ra mệnh lệnh nói trên sẽ phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật.
III. Một số đề xuất, kiến nghị
Thay vì quy định mang tính tản mạn như trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), BLHS năm 2015 đã chính thức quy định các trường hợp loại trừ TNHS thành một chương thống nhất với 07 trường hợp cụ thể, tuy nhiên, qua nghiên cứu nhận thấy một số quy định về các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn tồn tại những hạn chế, nếu không được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung sẽ gây ra những khó khăn cho việc áp dụng các quy định này trên thực tế, cụ thể:
Thứ nhất, việc quy định 02 trường hợp: (i) sự kiện bất ngờ và (ii) tình trạng không có năng lực TNHS vào Chương các trường hợp loại trừ TNHS (Chương IV) là không hợp lý[28], bởi lẽ: (i) sự kiện bất ngờ và tình trạng không có năng lực TNHS là 02 trường hợp có bản chất pháp lý hoàn toàn khác với các trường hợp loại trừ TNHS còn lại (như đã phân tích ở mục I); (ii) việc để sự kiện bất ngờ và tình trạng không có năng lực TNHS trong chương IV sẽ thấy được mối quan hệ giữa sự kiện bất ngờ với lỗi vô ý do cẩu thả (Điều 11, Chương III), mối quan hệ giữa tình trạng không có năng lực TNHS với tuổi chịu TNHS (Điều 12, chương III), mà việc hiểu rõ được những mối quan hệ này sẽ có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm trên thực tế. Do đó, cần nghiên cứu sắp xếp lại 02 trường hợp trên theo hướng giữ nguyên như quy định tại BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Thứ hai, so với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), quy định về phòng vệ chính đáng trong BLHS năm 2015 chỉ có điểm mới đó là thay đổi thứ tứ ưu tiên các quyền, lợi ích theo hướng đề cao quyền con người, quyền công dân lên trước, mà chưa có sự sửa đổi, bổ sung mang tính “căn cơ” nhằm chỉ rõ ranh giới giữa phòng vệ chính đáng với các trường hợp bị coi là tội phạm, đây là một trong những nguyên nhân làm cho chế định này trong thực tiễn thi hành BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) không khuyến khích được người dân thực hiện, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng xác định phòng về chính đáng. Chính vì vậy, cần phải đưa ra những giải thích, hướng dẫn, xác định rõ tiêu chí để đánh giá thế nào là sự chống trả lại một cách “cần thiết”, nhằm bảo đảm tính khả thi trong áp dụng, cũng như khuyến khích được người dân tham gia đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, cũng giống như phòng vệ chính đáng, quy định về gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội tại Điều 24 BLHS năm 2015 chưa làm rõ thế nào là sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ, điều này sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng, mặt khác trong trường hợp này, BLHS năm 2015 chưa làm rõ tội phạm mà người phạm tội đó bị bắt giữ phải đến mức độ nào để người bắt giữ có thể được dùng vũ lực để ngăn chặn/bắt giữ, có áp dụng với tất cả loại tội phạm hay không?. Điều này nếu không được làm rõ có thể dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt giữ. Do đó, cần nghiên cứu hướng dẫn giải thích rõ thế nào được coi là sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ, đồng thời cần xác định loại tội phạm mà người có thẩm quyền bắt giữ được sử dụng vũ lực bắt giữ người phạm tội./.
 


[1] Bộ Tư pháp (2016), Tài liệu Hội nghị quán triệt, phổ biến BLHS và Nghị quyết số 109/2015/QH13, trang 11.
[2] GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, trang 44
[3] GS.TSKH Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung – sách chuyên khảo sau đại học), nxb Đại học quốc gia Hà Nội, trang 591.
[4] TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 27, số 4 (15 – 29)
[5] TS. Nguyễn Tuyết Mai (2013), Quy định của pháp luật Việt Nam về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự và một số khuyến nghị hoàn thiện, Tài liệu Hội thảo “Kinh nghiệm của Ô-Trây-lia về việc hoàn thiện pháp luật hình sự và phương hướng sửa đổi Bộ luật hình sự”, tháng 6/2013, trang 41.
[6] Ths. Đinh Văn Quế (1998), Những trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự Việt Nam, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, trang 28.
[7] TS. Nguyễn Ngọc Thế (2013), Tội phạm, cấu thành tội phạm – Những vấn đề lý luận và thực tiễn (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, trang 153 – 180.
[8] Nội dung Chỉ thị nêu trên đã hướng dẫn cụ thể các hành vi được xác định là phòng vệ chính đáng. Đến BLHS năm 1985, phòng vệ chính đáng đã được quy định chính thức trong BLHS năm 1985
[9] Sửa đổi qua các năm 1989, 1991, 1992 và 1997.
[10] Đinh Bích Hà, (2007), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư pháp, trang 43, 44, 45
[11] Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức, Nxb Công an nhân dân, trang 32
[12] Được sửa đổi, bổ sung bằng Luật số 92-683 ngày 23/7/1992
[13] Hoàng Quốc Việt (2015), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Số Chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, trang 94
[14] Hoàng Quốc Việt… tlđd, trang 93
[15] Hoặc sự rủi ro (mạo hiểm) chấp nhận được (có căn cứ) về kinh tế hoặc nghề nghiệp
[16] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Bình luận khoa học phần chung BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Tư pháp, trang 117.
[17] Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, trang 574
[18] Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, trang 801
[19] TS. Nguyễn Tuyết Mai… tlđd, trang 42.
[20] GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập 1 – chủ biên), Nxb Công an nhân dân, trang 124.
[21] Tòa án nhân dân tối cao (1983), Chỉ thị 07/TAND ngày 22/12/1983 của Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo Tòa án các cấp thống nhất xét xử hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ.
[22] Hoàng Quốc Việt… tlđd, trang 87
[23] GS. TSKH. Lê Văn Cảm…. tlđd, tr.579.
[24] GS. TSKH. Lê Văn Cảm… tlđd, tr.566
[25] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa… tlđd, trang 134.
[26] Điều 29 Luật Công an nhân dân năm 2005 quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân: ...2. Nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệnh Công an nhân dân, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; Điều 26 Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 quy định về nghĩa vụ của sĩ quan: ...3. Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
[27] Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân và Dân quân tự vệ. Trong đó, lực lượng Quân đội bao gồm Lục quân, Hải quân, Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng Công an bao gồm An ninh và Cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công an. Riêng lực lượng Dân quân - Tự vệ là lực lượng quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành chính địa phương.
[28] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa…, tlđd, trang 116

Nguồn: Tạp chí pháp luật và phát triển