Tuổi xuân gửi lại nơi chiến tuyến - 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (07/5/1954 - 07/5/2024)

70 năm về trước, trong chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” có rất nhiều các chiến sỹ đã anh dũng hy sinh, trong số đó có những chiến sỹ ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, để lại tuổi xuân của mình nơi chiến tuyến. Họ là những chiến sỹ mang trong mình tình yêu Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ở đâu đó trong những trang sử, trang văn, trang thơ vẫn hiện lên nguyên vẹn hình ảnh anh hùng Phan Đình Giót - Lấy thân mình lấp lỗ châu mai; anh hùng Bế Văn Đàn - Lấy vai mình làm giá súng; anh hùng Tô Vĩnh Diện - Lấy thân mình cứu pháo; anh hùng Trần Can - Người cắm lá cờ chiến thắng đầu tiên trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2024), cùng điểm lại những dấu son trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng đầy vẻ vang của các chiến sỹ trẻ tuổi để qua đó mỗi đoàn viên thanh niên chúng ta nhận thức sâu sắc hơn sứ mệnh của mình trong thời kỳ mới - thời kỳ bảo vệ và xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh.

 
Hình ảnh hàng trăm chiến sĩ kéo pháo vào mặt trận Điện Biên Phủ…
(Một góc bức tranh “Trận chiến Điện Biên Phủ” tại Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ). Ảnh: toquoc.vn

 
Anh hùng Phan Đình Giót - Lấy thân mình lấp lỗ châu mai[1]
 

Phan Đình Giót sinh năm 1922 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nghèo khó, mấy đời chịu cảnh cày thuê, cuốc mướn. Bố mất sớm, anh phải đi ở cho gia đình địa chủ từ khi còn rất nhỏ.
Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, cùng bạn bè đồng trang lứa anh xin tham gia tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950 thì anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót luôn tự giác gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận mọi khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đồng đội nên anh luôn được anh em chiến sỹ đồng đội quý mến. Phan Đình Giót tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ.
Mùa đông năm 1953, đơn vị anh được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hành quân gần 500km, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng đồng chí vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Trong nhiệm vụ xẻ núi, mở đường, kéo pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go, gian khổ, anh đã nêu cao tinh thần gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên.
Chiều ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam. Cả trận địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo của quân ta. Các chiến sỹ Đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá tứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa của ta, đồng đội bị thương rất nhiều.
Lòng căm thù giặc dâng cao, Phan Đình Giót lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi dụng thời cơ địch hoang mang, anh lao lên bám chắc lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Anh bị thương ở vai và đùi, máu chảy rất nhiều. Thế nhưng bất ngờ từ hỏa lực lô cốt số 3 của địch bắn rất mạnh vào đội hình của ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, anh cố gắng nhích mình lên gần lại lô cốt số 3 với ý nghĩ cháy bỏng duy nhất là dập tắt lô cốt này. Anh đã dung hết sức cồn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai và hét to: “Quyết hy sinh vì Đảng, vi dân”, rồi dướn người lấy đà lao cả tấm ngực thanh xuân vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hỏa điểm lợi hại nhất của quân Pháp bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.
Phan Đình Giót hy sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954 ở tuổi 34. Phan Đình Giót được nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 31/3/1955. Khi hy sinh anh là Tiểu đội phó bộ binh, Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Huân chương Quân công hạng Nhì.

Anh hùng Bế Văn Đàn - Lấy thân mình làm giá súng[2]
 

Bế Văn Đàn sinh năm 1931, là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đồng chí sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, anh phải đi ở cho địa chủ từ nhỏ. Sau 05 năm đi ở, anh trốn về ở với dì và tham gia du kích. Tháng 01/1949, anh xung phong vào bộ đội và tham gia nhiều chiến dịch. Trong mỗi chiến dịch, Bế Văn Đàn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, kiên quyết chấp hành mệnh lệnh một cách nghiêm túc, chính xác và kịp thời.
Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, Bế Văn Đàn được phân công làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây ngăn quân Pháp ở Mường Pồn. Lúc đó khi thấy lực lượng của Việt Minh ít, quân Pháp tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân ta đánh bại. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt, quân Pháp liều chết xông lên, quân ta kiên quyết ngăn chặn chốt giữ.
Nhận lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, tạo điều kiện các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, anh đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Anh dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc xuống đại đội truyền đạt mệnh lệnh: “Bằng mọi giá phải giữ chân địch để đơn vị lớn triển khai lực lượng được kịp thời chu đáo”. Trận đấu ngày càng diễn ra ác liệt hơn, anh được lệnh ở lại đại đội chiến đấu cùng đồng đội.
Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội quân ta bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Phù cũng không bắn được vì không có chỗ đặt súng.
Trong tình thế hết sức khẩn trương, anh không ngần ngại chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn nói “Kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi”. Pù  nghiến răng nổ súng quật ngã hàng chục tên, địch hốt hoảng bỏ chạy, đợt phản kích của chúng bị bẻ gãy. Ta tiếp tục giữ vững trận địa chiến đấu. Nhưng trong thời gian đứng làm giá súng, Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và anh đã hy sinh khi hai tay còn ghì chặt chân súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của Bế Văn Đàn đã cổ vũ cán bộ, chiến sỹ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập công, góp phần làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Trong bài thơ “Một Bế Văn Đàn” của tác giả Xuân Diệu, tác giả đã khắc họa hình ảnh của người anh hùng Bế Văn Đàn hiện lên đầy anh dũng:
“…Nơi đây mộ Bế Văn Đàn
Thân làm giá súng, thân làm cành xuân;
Đang khi trận địa gian truân
Vai khiêng núi lửa diệt quân bạo tàn
Quân ta cờ thắm khải hoàn,
Mà người chiến sỹ đã tàn thịt xương…”
Hình ảnh Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng trở thành một trong những tấm gương tiêu biểu trong Quân đội ta. Tại Đại hội mừng công của đơn vị, Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, được bình bầu là Chiến sỹ thi đua số 1 của tiểu đoàn. Với thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Nhì.

Anh hùng Tô Vĩnh Diện - Lấy thân mình cứu pháo[3]
 
Hình ảnh anh hùng Tô Vĩnh Diện hy sinh thân mình
để cứu khẩu pháo không bị lăn xuống vực trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
(Ảnh chụp một góc bức tranh “Trận chiến Điện Biên Phủ”). Ảnh: toquoc.vn

 
Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924 ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Anh sinh ra trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở đợ anh luôn phải chịu áp bức, bất công. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương, đến năm 1949 anh xung phong đi bộ đội.
Tháng 5/1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1.000km tới vị trí tập kết để tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn nhận những nhiệm vụ khó khăn, nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo đến nơi an toàn. Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường nguy hiểm, anh luôn nhắc nhở đồng đội chuẩn bị chu đào và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng con dốc rồi phổ biến cho đồng đội để tránh những bất ngờ xảy ra.
Qua 05 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp cong và rất nguy hiểm, anh cùng đồng chí pháo thủ Lê Văn Chi xung phong lái pháo. Đến nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tình giữ càng lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Chi bị hất văng ra. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em “Thà hy sinh để bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó các anh em đồng đội kịp ghìm pháo lại. Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của anh đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
Khi hy sinh anh là Tiểu đội trưởng pháo cáo xạ 37 ly, thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 07/5/1955, Tô Vĩnh Diện được truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Anh hùng Trần Can - Người cắm lá cờ chiến thắng đầu tiên trong chiến dịch Điện Biên Phủ[4]
 
Đại đội phó Trần Can dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên
xông vào sở chỉ huy địch, cắm cờ lên lô cốt Him Lam. Ảnh: Tư liệu TTXVN

 
Trần Can sinh năm 1931 ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ngay từ khi còn nhỏ, Can đã rất thích vào bộ đội để được cầm súng giết giặc cứu  nước. Khi lớn lên anh đã ba lần viết đơn xin tình nguyện đi bộ đội, nhưng vì sức khỏe yếu nên đến lần thứ tư, năm 1951, anh mới được chấp thuận.
Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức linh hoạt. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn ác liệt, anh đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đã hai lần anh bị thương nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm gương Trần Can đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công sôi nổi trong toàn đợn vị.
Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội, lên đồn Pháp. Khi nổ súng mặc cho hỏa lực quân Pháp bắn ra dữ dội, anh dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, chọc thẳng vào sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào giữa tim gan địch, rồi nhảy lên lô cốt cắm lá cờ. Sau đó anh chỉ huy tiểu đội diệt lính Pháp còn lại trong hầm ngầm, bắt sống 25 tên và tịch thu nhiều vũ khí.
Trong trận đánh điểm cao 507, anh dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp đảo quân Pháp, chiếm mỏm cột cờ. Lính Pháp bắn đạn dữ dội và cho quân địch chiếm lại. Ta với Pháp giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Anh cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt phản kích của địch, chúng xông lên trong đợt công kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong. Trần Can nhặt lựu đạn ném lại và chỉ huy đơn vị nhảy lên bờ hào đánh ráp lá cà. Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng bị thương nhưng anh vẫn quyết tâm thay thế cán bộ đại đội chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm.
Sáng hôm sau anh tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận địa. Quân Pháp lại phản kích dữ dội, mong đánh bại quân ta, giành cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt pháo kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào Mường Thanh. Anh đã hy sinh anh dũng sáng ngày 07/5/1954, ngày kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Khi hy sinh Trần Can là Đại đội phó binh thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Liệt sỹ Trần Can được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Trước đó, đồng chí Trần Can cũng được tặng nhiều danh hiệu và huân chương như: Huy chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Chiến sĩ thi đua của Đại đoàn.

Tấm gương những chiến sỹ trẻ tuổi tiếp thêm nguồn sức mạnh cho thế hệ thanh niên ngày nay trong việc thực hiện sứ mệnh của mình
Sứ mệnh của thanh niên là sự dấn thân, nhiệt huyết, sáng tạo, xung kích của tuổi trẻ vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên. “Tiên phong” là phẩm chất vốn có của lớp lớp thế hệ thanh niên Việt Nam từ trước tới nay, thời kỳ nào cũng vậy thanh niên vẫn luôn là lực lượng tiên phong, sẵn sàng bước lên phía trước nhận nhiệm vụ và ngọn cờ tiên phong, vẫn đang và mãi được tổ chức Đoàn gương cao.
Tiếp bước những tấm gương anh hùng như Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Trần Can… các thế hệ thanh niên Việt Nam ngày nay đã và đang tích cực “Xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những tấm gương, điển hình tiên tiến, xung kích, đi đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác… trong suốt những năm đổi mới đất nước đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước” là chuẩn bị cho “tương lai của dân tộc”, tổ chức cơ sở Đoàn các cấp đã không chỉ nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình mà còn phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên trong các phong trào thi đua, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua đó, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, phấn đấu và trưởng thành, góp sức, bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Thời gian vừa qua, nối tiếp các phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”, hai phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” đã được từng bước cụ thể hóa, ngày càng đi sâu, lan tỏa vào đời sống của đoàn viên, thanh niên, được xã hội ghi nhận và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vừa chăm lo nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo đoàn viên, thanh niên, vừa phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ tham gia thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo đảm an sinh xã hội.
Đội ngũ cán bộ Đoàn ngày càng trở thành nguồn cán bộ trẻ dồi dào của Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp. Nhiều tấm gương thanh niên tiêu biểu trong học tập, lao động sản xuất, làm kinh tế, trong hoạt động văn hóa xã hội, khoa học kỹ thuật, trong bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội… đã góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang và niềm tự hào về thế hệ trẻ Việt Nam trong suốt những năm tháng lịch sử hào hùng và trong cả giai đoạn đổi mới hiện nay./.

[1] Nguồn: http://baoquankhu4.com.vn/chinh-tri/nhung-tam-guong-anh-hung-trong-chien-thang-dien-bien-phu.html
[2] Nguồn: https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/chien-thang-dien-bien-phu-moc-son-lich-su/anh-hung/anh-hung-be-van-dan-lay-than-minh-lam-gia-sung-770856
[3] Nguồn: https://baotintuc.vn/nhan-vat-su-kien/liet-si-to-vinh-dien-nguoi-anh-hung-lay-than-minh-chen-banh-phao-20240410125638240.htm
[4] Nguồn: https://www.tuyengiao.vn/tran-can-nguoi-anh-hung-cam-co-tren-cu-diem-him-lam-153785