Di chúc Hồ Chí Minh - Những giá trị lịch sử và định hướng cho Thanh niên Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, nhà văn hóa kiệt xuất của Đảng và dân tộc ta, trọn đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tuy đã đi xa nhưng tình cảm, đạo đức và trí tuệ của Người vẫn mãi dõi theo cùng dân tộc. Những lời căn dặn và mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc vô cùng giản dị mà thiêng liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp, thấm đẫm tinh thần nhân văn, có giá trị lịch sử và ý nghĩa định hướng sâu sắc cho cách mạng Việt Nam nói chung và Thanh niên Việt Nam. 50 năm qua, Di chúc của Người với những giá trị tư tưởng cốt yếu và giá trị nghệ thuật đặc sắc đã trở thành Cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1. Giá trị tư tưởng trong Di chúc Hồ Chí Minh
Với tầm nhìn chiến lược, hay như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “với tầm nhìn của con đại bàng trên đại ngàn hùng vĩ”, Di chúc Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiều vấn đề tư tưởng cơ bản, cốt lõi và sâu sắc nhưng cũng hết sức cụ thể, thiết thực và sát hợp với cách mạng Việt Nam.
1.1. Tư tưởng về xây dựng Đảng
Thứ nhất, Hồ Chí Minh chú trọng công tác xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng Mácxít vững mạnh, đã và đang lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi to lớn. Để xây dựng Đảng vững mạnh, Người rất coi trọng việc xây dựng và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Trong Di chúc để lại trước lúc đi xa, Người đã nhắc nhở, dặn dò cán bộ, đảng viên: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[1]. Theo đó, đoàn kết thống nhất trong Đảng phải trên nguyên tắc tôn trọng và thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất vì mục tiêu lý tưởng cách mạng, vì lợi ích của giai cấp, của Đảng, của nhân dân và toàn thể dân tộc, không phải đoàn kết thống nhất để bảo vệ lợi ích cục bộ của một bộ phận hay cá nhân, bất chấp những vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật.
Hồ Chí Minh xem đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhân tố đảm bảo cho Đảng vững mạnh, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng cách mạng. Cũng trong phần nói về Đảng của Di chúc, Người khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[2].
Thứ hai, Hồ Chí Minh chú trọng công tác tự phê bình và phê bình phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng Mác - Lênin, phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất, là vũ khí sắc bén giúp mỗi người phát huy ưu điểm và thành tích, khắc phục khuyết điểm, sai lầm để nâng cao đạo đức cách mạng, để Đảng ngày càng phát triển[3].
Hồ Chí Minh xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, tăng cường đoàn kết nội bộ. Người chỉ rõ: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[4]. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự phê bình và phê bình với ý thức xây dựng, với tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Người phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hoà vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, đả kích, vùi dập người khác, và như vậy chỉ làm mất đoàn kết nội bộ.
Thứ ba, Hồ Chí Minh coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Trong Di chúc Bác viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[5]. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đạo đức cách mạng là cái gốc, cái căn bản nhất của người cách mạng. Vì Bác cho rằng sự thắng lợi hay thất bại của một cuộc cách mạng phụ thuộc trực tiếp vào bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức của đội tiên phong.
Đạo đức cách mạng luôn là một tiêu chuẩn quan trọng của mỗi cán bộ, đảng viên trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Đạo đức cách mạng là tiền đề, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu cao cả của mình, là giá trị thuộc về nhân cách của mỗi con người. Trong việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Bác quan tâm, bồi dưỡng toàn diện cả vật chất và tinh thần, nhưng Người vẫn đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng về đạo đức cách mạng, về lý tưởng cách mạng.
Bác coi việc suốt đời hy sinh, phấn đấu cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng, trung với nước, hiếu với dân là điều mấu chốt nhất, Bác viết: “Những người Cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”. Cùng với đó, Bác luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên lợi ích của bản thân mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Người khẳng định: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một phẩm chất đạo đức lớn của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi con người.
1.2. Tư tưởng về con người và giải phóng con người; chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân
Thứ nhất, tư tưởng vì con người và giải phóng con người; luôn quan tâm và chăm lo đến mọi tầng lớp người trong xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người là một hệ thống quan điểm toàn diện, phong phú và sâu sắc, chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ tư tưởng của Người. Bởi mục đích cao cả và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Tình thương yêu con người ấy cũng là nền gốc để quy tụ, đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp, mọi lực lượng, mọi con người, tạo nên sức mạnh vĩ đại để giải phóng cho dân tộc, cho mọi người và cho mỗi con người.
Lòng thương yêu con người của Bác không chỉ là sự quan tâm, tin tưởng, giáo dục động viên mà còn phải hành động, làm những việc thiết thực, đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu của con người. Bác đã khẳng định: Chính phủ của ta là công bộc của dân, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy, việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh, phải chú ý giải quyết hết những vấn đề dầu khó khăn, phức tạp đến đâu.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Lòng thương yêu con người của Bác không chỉ là sự quan tâm, chăm sóc mà còn là sự nhắc nhở chăm lo cải tạo và xây dựng con người, nhằm giải phóng con người. Bác đã chỉ ra rằng: người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu, có thiện và ác trong lòng, điều này phần lớn do giáo dục mà ra, thái độ của người cách mạng là phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi.
Người đã căn dặn phải có một chính sách đặc biệt đối với mọi tầng lớp nhân dân đã vì Tổ quốc mà hy sinh: Theo người, đó là công việc nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn, phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm; đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh” và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ “có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”[6], tức là để họ có thể tự mình làm ra tất cả, không ỷ lại, thụ động và bất lực trước hoàn cảnh khó khăn.
Đối với nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đó là đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Do vậy, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đối với nhân dân lao động nói chung Người căn dặn “Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[7].
Đối với phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến việc bồi dưỡng, cất nhắc, giúp đỡ phụ nữ, để họ tiến bộ, bình đẳng và thật sự được giải phóng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày có thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”[8].
Ngay cả đối với những người Việt Nam lầm lỡ, trước đây làm việc cho chế độ cũ hoặc không lương thiện trong chế độ xã hội cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ coi họ là “nạn nhân của chế độ xã hội cũ” và nhắc nhở Đảng, Nhà nước phải quan tâm đến họ, hướng thiện và hướng nghiệp cho họ theo tinh thần “đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”: “Đối với nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Nhà nước phải vừa dùng giáo dục vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”[9]. Đó cũng chính là truyền thống nhân đạo, triết lý khoan dung của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và làm sâu sắc thêm.
Thứ hai, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, chăm lo sức khỏe của nhân dân, xây dựng đời sống văn hóa mới
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa là một quan điểm lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trách nhiệm to lớn và thường xuyên của Đảng với nhân dân là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[10].
Bác chỉ dẫn, dự liệu, gợi mở về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hóa trong toàn dân, toàn xã hội. Quan tâm xây dựng văn hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị để nêu gương thuyết phục trong nhân dân. Định hướng chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh, trong đó có việc mở rộng ngành nghề đào tạo nguồn nhân lực, sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới; phát triển công tác vệ sinh, y tế…
Qua lời dặn dò về việc riêng, Bác quan tâm sâu sắc những vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa mới như thực hành lối sống tiết kiệm, tránh lãng phí, chú trọng xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái...
1.3. Tư tưởng về sự nghiệp trồng người và chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói về con người: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Do vậy, phải có kế hoạch đẩy mạnh công tác trồng người và chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Làm được như vậy chúng ta mới có thể đào tạo, xây dựng được những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác.
Thứ nhất, công tác bồi dưỡng thế hệ cách mạng tương lai
Bác cho rằng, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đây cũng chính là tư tưởng đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”.
Trong Di chúc, Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trong và rất cần thiết”. Trong bồi dưỡng, đào tạo những con người kế tục sự nghiệp cách mạng phải coi trọng cả đức và tài, trong đó Người đặt lên hàng đầu là đạo đức cách mạng. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu và căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[11].
Thứ hai, công tác thanh niên
Vận dụng quan điểm vì con người và giải phóng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua bản Di chúc với tư tưởng “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” và “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên”, công tác đào tạo bồi dưỡng phải đạt cho được mục tiêu giáo dục toàn diện để lực lượng thanh niên sau khi đào tạo đủ sức phục vụ nhân dân.
Bên cạnh việc củng cố niềm tin của thanh niên, sinh viên vào Đảng, vào chế độ, phải tăng cường giáo dục cho họ tình cảm yêu nước nồng nàn. Yêu nước, tức là yêu độc lập của đất nước; yêu chủ nghĩa xã hội; là phải làm giàu cho gia đình và đất nước; phải trung với Đảng, với nước, hiếu với nhân dân. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và giao lưu quốc tế hiện nay thì “trung” và “hiếu” phải được coi là giá trị nổi bật để thanh niên - sinh viên không dễ sa vào cạm bẫy của kẻ thù. Có thể nói giáo dục tình cảm yêu nước là nội lực quan trọng để tạo cho thanh niên, sinh viên - những người chủ tương lai của đất nước, ý chí tự lực tự cường, say mê trong lao động, học tập.
Phải quan tâm giáo dục ý thức cộng đồng để mỗi cá nhân hăng say phấn đấu trong lao động, học tập và khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng, với xã hội. Đồng thời cộng đồng phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, trưởng thành của mỗi cá nhân. Sự gắn bó của cá nhân với cộng đồng và sự quan tâm của cộng đồng đối với cá nhân sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn giúp cho thanh niên vượt qua những điều kiện khó khăn, quyết tâm phấn đấu giành thắng lợi cho bản thân, qua đó đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội.
Trong việc giáo dục đạo đức, lý tưởng cho sinh viên, cần kết hợp giữa giáo dục những phẩm chất truyền thống như yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần, kiệm... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng tạo, tự lập, tự chủ, vượt khó... Có như vậy mới giúp họ khẳng định bản thân và hòa nhập vào xã hội hiện đại; hơn nữa, để họ không mất gốc mà còn có điều kiện vươn lên làm chủ khoa học, công nghệ.
1.4. Tư tưởng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào thời kỳ gay go, ác liệt nhất, cũng là lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải chịu một tổn thất lớn lao, một niềm đau thương vô hạn, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Trong nhiều điều căn dặn lại toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Người đã khẳng định niềm tin: “cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”[12]; “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ”[13]. Đó là niềm tin chính trị sắt đá của lãnh tụ Hồ Chí Minh, một niềm tin được xây dựng trên cơ sở nắm vững lý luận khoa học Mác - Lênin, cùng với sự từng trải trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của Người đem lại. Niềm tin chính trị ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là trụ cột tinh thần, là nhân tố cốt lõi củng cố niềm tin vững chắc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Niềm tin đó đã thôi thúc nhân dân ta sôi sục ý chí quyết tâm, tạo nên một khí thế cách mạng cao chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Ngoài chiến trường, bộ đội ta thi đua giết giặc lập công; ở hậu phương, nhân dân ta đề ra và thực hiện nhiều khẩu hiệu như: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”… và cuối cùng chúng ta đã chiến thắng, Tổ quốc ta đã thống nhất, đồng bào Nam Bắc đã sum họp một nhà - đúng như lời trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.
1.5. Tư tưởng về tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thế giới
Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”. Bác mong muốn khi nước nhà được độc lập, sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em, các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Những định hướng trên mở ra cho Đảng ta những nhận thức sâu sắc hơn về đường lối đối ngoại, mục tiêu, vai trò của công tác tăng cường đoàn kết quốc tế. Bác mong muốn rằng “Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”[14].
2. Ý nghĩa định hướng cho Thanh niên Việt Nam của Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong những năm qua, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng, đạo đức, phong cách thể hiện trong Di chúc của Người nói riêng luôn được Đảng ta quán triệt trong cán bộ, đảng viên, nhằm tạo động lực to lớn cho công cuộc đổi mới, góp phần đẩy mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, củng cố hệ thống chính trị.
Cùng với việc thực hiện các Nghị quyết qua các kỳ Đại hội Đảng, Bộ Chính trị cũng đã ban hành nhiều văn bản để quán triệt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cụ thể, ngày 07/11/2006 Bộ Chính trị (khóa X) đã ban hành Chỉ thị 06-CT/TW về “Tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và ngày 14/5/2011, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tiếp đó, nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tồn tại, ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Theo đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đây là những chủ trương, chính sách quan trọng nhằm tiếp tục phát huy những giá trị cao nhất trong hệ giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Do vậy, có thể khẳng định, những tư tưởng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa định hướng sâu sắc cho cách mạng Việt Nam nói chung, Thanh niên Việt Nam nói riêng được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Một là, kiên định ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng thể hiện trong Di chúc của Hồ Chí Minh nói riêng cũng như trong đường lối của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó thể hiện sự lựa chọn sáng suốt của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với xu hướng của thời đại.
Trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc diễn ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng đều đi đến thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã tìm ra lời giải đáp cho cách mạng Việt Nam. Qua nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người đã tìm thấy trong Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 những tư tưởng nhằm giải phóng triệt để con người, là một cuộc cách mạng đến nơi một cách thật sự, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn thể loài người. Từ đó, Người đã lựa chọn cách mạng Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo hệ tư tưởng Mác - Lênin.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo của mình.
Trong Di chúc để lại trước lúc “đi xa”, “độc lập dân tộc, thống nhất đất nước” là niềm tin, là mong mỏi thiết tha nhất của Người. Đây là một trong những định hướng lớn, có ý nghĩa sâu sắc cho Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam các giai đoạn tiếp theo. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, bối cảnh thời đại, hợp lòng người. Sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội tiếp tục được Đảng ta thấu suốt và thực hiện sáng tạo trong điều kiện đất nước thống nhất, hòa bình, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trung thành với mục tiêu và con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta chủ động vận dụng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp cụ thể. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã kết luận: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt cách mạng nước ta”[15].
Đại hội XI (năm 2011) đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, bổ sung phát triển thành Cương lĩnh năm 2011, đã rút ra 05 bài học cơ bản và tiếp tục nhấn mạnh bài học hàng đầu là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh một lần nữa khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” và nêu lên những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời bổ sung, phát triển những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, vạch ra các phương hướng và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về bảo vệ Tổ quốc đặc biệt quan trọng của Đảng ta. Nghị quyết đã xác định hệ thống những quan điểm mang tầm chiến lược về bảo vệ Tổ quốc, trong đó, “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là một quan điểm cơ bản. Thực chất đây vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng từ trước đến nay.
Tại Đại hội XII (2016) của Đảng đã phân tích bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế, từ đó chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”[16].
Ngày nay, công cuộc đổi mới của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cũng đã nhận định rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trong đó chỉ rõ: Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái… Từ đó đề ra mục tiêu và giải pháp nhằm thực hiện tốt công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam cũng như tư tưởng lớn trong Di chúc của Hồ Chí Minh, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Khẳng định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân ta. Đồng thời, không ngừng đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của cách mạng Việt Nam.
Hai là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng Đảng, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng[17].
Trong bản Di chúc, vốn được Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, Người khẳng định sức mạnh to lớn của đoàn kết qua thực tiễn cách mạng nước ta: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta”[18]. Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà nhân dân đã tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta rút ra 04 bài học quý, trong đó có bài học về tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội lần thứ IV thông qua, đã được sửa đổi, bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI đều khẳng định “Đảng coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ là sinh mệnh của Đảng, và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái trong Đảng”[19]. Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng cùng nhấn mạnh: “Đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng. Cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình yêu thương đồng chí”[20]. Đại hội lần thứ IX của Đảng yêu cầu: “Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp ủy, tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm”[21].
Kế thừa và phát triển tư tưởng đoàn kết thống nhất trong Đảng, từ Đại hội X đến Đại hội XII đều tiếp tục thể hiện tư tưởng này với một tầm cao mới. Đặc biệt, theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” thì ngoài việc nêu ra những thách thức không nhỏ ảnh hưởng đến việc tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trên cơ sở nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết đã nhấn mạnh quan điểm: “Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp” là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Những năm gần đây, Đảng ta tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng và trong các cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, thực tế là ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Mặt khác, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng… Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở theo định hướng trong Di chúc Hồ Chí Minh là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Ba là, không ngừng coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, phần viết về “Tư cách của Đảng chân chính cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan, phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[22]. Để làm tròn nhiệm vụ đó, người cách mạng nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng phải luôn nỗ lực phấn đấu, thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng. Theo Người thì đạo đức cách mạng là: “Quyết tấm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng - Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”[23].
Tiếp thu các tinh hoa văn hóa của dân tộc, nhân loại và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là định hướng trong Di chúc Hồ Chí Minh - “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, yêu cầu về rèn luyện đạo đức cách mạng và những biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện trong nội dung các văn kiện và nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội.
Văn kiện Đại hội IX khẳng định: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”[24]. Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng”; và “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”[25].
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, được đặt lên hàng đầu để Đảng “là đạo đức, là văn minh”; trong đó, tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nội dung cần thiết, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Nghị quyết khẳng định xây dựng Đảng là một trong 06 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ (2016 - 2020), với nội dung cơ bản là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[26]; “Tập trung thực hiện mục tiêu: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”[27]
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thoái hoá, biến chất, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài. Họ sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, của lợi ích nhóm… nên đã không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước nhân dân. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước… Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”. Đó là những người sa vào “cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”[28], trở thành những con sâu mọt “thoái bộ, lạc hậu”, “ngăn trở sự nghiệp của Đảng, ngăn trở bước tiến của cách mạng” đã và đang đưa lại những tổn thất rất lớn cho sự nghiệp cách mạng. Với họ, lời nói không đi đôi với việc làm, nói giỏi về đạo đức cách mạng nhưng thực tế thì rời xa những phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng, “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành”[29]… Điều đáng lo ngại là những sai phạm của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ấy, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cấp cao đã bị đưa ra xử lý, đưa ra khỏi Đảng gần đây không những làm thiệt hại lớn đến kinh tế của Nhà nước mà còn làm suy giảm niềm tin trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; làm rạn vỡ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân... 
Để đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự thấm nhuần và rèn luyện đạo đức cách mạng hiệu quả, thiết thực, trong những năm qua, cấp ủy các cấp đã và đang triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” cùng các Quy định “Về những điều đảng viên không được làm”, Quy định số 101-QÐ/TW ngày 07/6/2012 “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện, đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”, Quy định số 109-QĐ/TW ngày 03/01/2018 về “Công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên” và gần đây nhất là Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương... Thông qua việc thực hiện những quy định này đã tạo sự chuyển biến, từ nâng cao nhận thức sang hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên, tại mỗi tổ chức cơ sở đảng bằng cách gắn thực hành đạo đức cách mạng với phòng chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát huy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực, góp phần quan trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Bốn là, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là: phải luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nghĩa vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, coi đó là nội dung quan trọng trong đường lối kháng chiến, một điều kiện bảo đảm đưa kháng chiến đến thắng lợi. Đường lối đó phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng và ý chí quyết tâm của nhân dân ta, dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và đi đúng xu thế tiến bộ của nhân loại. Vì vậy, đường lối kháng chiến được nhân dân ta hưởng ứng mạnh mẽ ngay từ đầu, tạo nên sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc kháng chiến. Việt Nam đã huy động tối đa mọi nguồn lực của dân tộc, mỗi người dân. Bất kỳ già trẻ, trai gái, bất kỳ giàu nghèo, lớn bé đều trở thành chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, trở thành một lực lượng vật chất, tinh thần hùng hậu. Đồng thời, với đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn và hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước bạn bè năm châu, sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo ra sức mạnh tổng hợp. Đường lối đúng đắn này chính là thể hiện sự kết hợp giữa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính trị quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như lời Đại tướng Văn Tiến Dũng từng nói: “Một lần nữa tôi muốn nói rằng, nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay. Và Ban lãnh đạo chúng tôi biết khai thác, biết phát huy tất cả những sức mạnh đó để chiến thắng”[30].
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng đi đến thắng lợi là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong Di chúc của Người nói riêng và đường lối cách mạng của Đảng ta, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thành công. Giá trị của bài học quý báu này đã, đang và sẽ rất cần được tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hiện nay.
Tổng kết 15 năm đổi mới (1986 - 2000), tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định bốn bài học kinh nghiệm chủ yếu của sự nghiệp đổi mới, trong đó, bài học kinh nghiệm thứ ba là: “Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Kế thừa tư tưởng đó, Đại hội XI của Đảng (2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”[31].
Đại hội XII của Đảng (2016) đã khẳng định qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Bên cạnh đó, Đại hội cũng đưa ra nhiều bài học, trong đó có bài học: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[32].
Năm là, phát huy nhân tố con người; xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Do đó, với những định hướng trong tư tưởng cũng như trong Di chúc của Người, đặc biệt là những tư tưởng vì con người, giải phóng con người, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi sự phát triển và coi việc phát huy nhân tố con người, xây dựng và phát triển văn hóa là một trong những nhiệm vụ chiến lược. Mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người đã được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa[33]. Quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề này luôn có sự khẳng định phát triển theo hướng ngày càng rõ nét và hoàn thiện hơn qua mỗi thời kỳ Đại hội.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Đại hội lần thứ VII năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[34]. Ở Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[35].
Đại hội X đã thể hiện tư duy đổi mới, khoa học của Đảng trong xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người Việt Nam với nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, nhận thức tư tưởng, thế giới quan, đạo đức cách mạng, kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn minh, hiện đại... Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể con người, mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Đại hội XI của Đảng nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được coi là khâu đột phá thứ hai. Đồng thời, Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người trên cơ sở: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”[36].
Kế thừa những quan điểm cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo đó, việc hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước đã trở thành mục tiêu quan trọng.
Phát huy những kết quả quan trọng đã đạt được của các kỳ Đại hội trước, nhất là từ Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI), xuất phát từ thực tiễn phát triển con người Việt Nam trong thời gian qua, Đảng ta đã đưa ra mục tiêu tổng quát về xây dựng, phát triển con người tại Nghị quyết Đại hội XII như sau: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[37]. Cũng trong Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đã gắn nhân tố con người với xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hoá. Ngoài ra, yếu tố con người đề cập lần này là những con người rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng, trách nhiệm xã hội…; việc xây dựng con người phải thông qua hoạt động thực tiễn, cụ thể của từng người, chứ không nói chung chung. Trong 06 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể của việc phát huy nhân tố con người như: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”[38].
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng khẳng định việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Do đó, cần đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển toàn diện con người: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đây là quan điểm mà Đảng ta luôn nhất quán, mang tính định hướng chiến lược trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng… Do vậy, công tác chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới của Đảng và Nhà nước ta.
Tóm lại, Di chúc vừa là văn kiện của một nhà chính trị lớn, lãnh tụ cao nhất của Đảng và dân tộc, người đã sáng tạo ra thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam, vừa là tác phẩm nghệ thuật tầm cỡ của một nhà văn hoá lớn, chứa đựng sự mẫu mực tuyệt vời về ứng xử tinh tế và cao thượng, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa thủy chung, sâu sắc của nhà cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc. Thấu hiểu sâu sắc nội dung tư tưởng và giá trị vô cùng quan trong của Di chúc Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam 50 năm qua, Thanh niên Việt Nam cần tiếp tục coi trọng công tác rèn dũa các phẩm chất chính trị, nâng cao giá trị đạo đức, khổ công luyện tài, xứng đáng với sứ mệnh lịch sử của thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng Việt Nam./.
 
                           ThS. Nguyễn Văn Huy – Chi đoàn Nhà Xuất bản tư pháp.
 

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.622.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.621-622.
[3] TS. Trần Viết Hoàn, Đạo đức Bác Hồ - Tấm gương soi cho muôn đời, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2017, tr.146.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.622.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.622.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.616.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.622.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.617.
[9] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.617.
[10] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.622.
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.616-617.
[12] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.618.
[13] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.612.
[14] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.623.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H, 1991, tr.4.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.75.
[17] PGS.TS. Vũ Văn Phúc, Đoàn kết thống nhất trong Đảng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/33321/Doan-ket-thong-nhat-trong-Dang-theo-tu-tuong-cua-Chu-tich.aspx, truy cập ngày 03/4/2019.
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966 - 1969), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.622.
[19] Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t. 6, tr.47, 585.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.143 - 144.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.144.
[22] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 (1947-1948), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.289.
[23] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11 (1957-1958), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.603.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.76.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, HN 2006, tr. 48, 66.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.217.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.202.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, ngày 30/10/2016.
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, ngày 30/10/2016.
[30] Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, H, 1986, tr.48.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.65-66.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.69-70.
[33] TS. Đinh Thế Huynh - GS.TS. Phùng Hữu Phú - GS.TS. Lê Hữu Nghĩa - GS.TS. Vũ Văn Hiền - PGS.TS. Nguyễn Viết Thông, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2015, tr.155.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1991, tr.13.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.87.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.100.
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.78.
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.53.