Nhân Kỷ niệm 44 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2019), tuổi trẻ chúng ta ngày càng tự hào về lịch sử dân tộc, tự hào về các thế hệ cha anh đi trước đã ngã xuống, hiến dân xương máu cho nền độc lập ngày nay. Thấy được những giá trị cao quý đó, tuổi trẻ cả nước nói chung, tuổi trẻ Ngành Tư pháp nói riêng càng phải thường xuyên nâng cao nhận thức về độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Qua bài viết, tác giả khái quát những vấn đề cơ bản với mong muốn góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đến nay, các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng điểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Diễn biến hòa bình thực sự là nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch là nội dung quan trọng và cấp bách của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, trong đó đội ngũ công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần quyết tâm cao trong nhận thức và hành động để xứng đáng là một trong những lực lượng tiên phong.
1. Nhận thức chung về chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ
1.1. Chiến lược “diễn biến hòa bình”
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của chiến lược “diễn biến hòa bình”
“Diễn biến hòa bình” còn có những tên gọi khác như: “Chuyển hóa hòa bình”, “Biến đổi hòa bình”, “Cạnh tranh hòa bình”, “Vượt trên hòa bình”, “Chiến thắng không cần chiến tranh”… Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận, định nghĩa khác nhau về “diễn biến hòa bình”. Cụ thể:
Theo nhiều cách hiểu chung, “Diễn biến hòa bình” là diễn biến dần dần, cuối cùng đi đến một chế độ chính trị khác, không qua bạo lực; chiến lược không dùng chiến tranh mà dùng hàng loạt phương thức và thủ đoạn, nhằm tạo ra một quá trình diễn biến hòa bình để lật đổ chế độ chính trị ở nước khác.
Từ điển Bách khoa Việt Nam giải nghĩa: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Theo PGS.TS. Vũ Hiền và PGS.TS. Trần Quang Nhiếp, “diễn biến hòa bình” là những âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động nhằm làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao. Hình thức cuộc đấu tranh có thể “êm thấm”, “từ từ”, “thầm lặng”, “hòa bình”, nhưng sẽ dẫn đến làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản tự tan rã.
Như vậy, về cơ bản có thể hiểu “diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của các thế lực thù địch tiến hành nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng biện pháp phi quân sự, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chế độ chính trị - xã hội theo quy đạo của chủ nghĩa tư bản.
Đặc trưng cơ bản để nhận biết chiến lược diễn biến hòa bình so với các chiến lược phản cách mạng khác là:
Thứ nhất, đây là cuộc chiến không sử dụng súng đạn, không sử dụng phương thức chiến tranh xâm lược để xóa bỏ chế độ hiện hữu của đối tượng hướng tới của chiến lược;
Thứ hai, đây là cuộc chiến chủ yếu sử dụng các công cụ “mềm” như kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, tôn giáo, ngoại giao… chủ yếu dựa trên tiềm lực về kinh tế, quốc phòng, khoa học - kỹ thuật… của các thế lực thù địch;
Thứ ba, tác động vào từ bên ngoài tạo nên sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tự suy yếu bên trong các nước xã hội chủ nghĩa thông qua lực lượng và phương tiện của chính đối phương;
Thứ tư, phương thức thực hiện là lôi kéo, mua chuộc những lãnh đạo cấp cao, giới trí thức, văn nghệ sỹ có uy tín, những người có tư tưởng dao động, nhận thức lệch lạc hoặc bất mãn với chế độ;
Thứ năm, chiến lược “diễn biến hòa bình” mang tính toàn cầu, được triển khai trên quy mô và rộng khắp, được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, từng bước làm đối phương mâu thuẫn, rối loạn nội bộ dẫn đến tự suy yếu, tự chuyển hóa.
1.1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát tiển của chiến lược “diễn biến hòa bình”
Chiến lược “diễn biến hòa bình” có quá trình hình thành và phát triển khá phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, bắt nguồn từ Mỹ nhằm mục đích chống phá sự nghiệp cách mạng của một số nước, đặc biệt là chống chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu về quá trình này có thể khái quát thành 03 giai đoạn chủ yếu sau:
Thứ nhất, giai đoạn hình thành, khảo nghiệm chiến lược diễn biến hòa bình (từ giữa thập kỷ 40 đến giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX).
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945), với uy tín và tầm ảnh hưởng quốc tế của Liên Xô, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc diễn ra khắp thế giới. Từ đó, một loạt nước xã hội chủ nghĩa ra đời và trở thành hệ thống xã hội chủ nghĩa, làm thay đổi căn bản tương quan so sánh thế giới. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành chiến lược toàn cầu nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, làm suy yếu, thu hẹp địa bàn ảnh hưởng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Một trong những chiến lược đó chính là sử dụng thủ đoạn phi quân sự nhằm “chuyển hóa hòa bình” các nước xã hội chủ nghĩa theo tư bản chủ nghĩa.
Từ “diễn biến hoà bình” đã được biến đổi bởi ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles, từ một học thuyết ban đầu được vạch ra bởi George F. Kennan, trong cái gọi là điện tín dài vào ngày 22/2/1946, đã đề xuất rằng các khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa có thể đạt đến trạng thái “sống chung hòa bình”. Điều này đã được bổ sung bởi Dulles hơn một thập kỷ sau đó, trong bài phát biểu vào năm 1957-1958, để “thúc đẩy diễn biến hòa bình hướng tới dân chủ”. Tháng 10/1963, ngoại trưởng Anh Alex Douglas phát biểu “con đường đánh bại chủ nghĩa cộng sản là dùng tư tưởng của chúng ta để đánh vào các nước cộng sản chủ nghĩa”. Theo đó, chủ nghĩa đế quốc cần đẩy mạnh các biện pháp để truyền bá tư tưởng thân phương Tây, phủ định chủ nghĩa xã hội thâm nhập vào nhà nước và người dân các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong giới thanh niên.
Thứ hai, giai đoạn thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình để xóa bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa (từ thập kỷ 80 đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX).
Đây là giai đoạn chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa xã hội có sự chuyển hướng trọng điểm từ kiềm chế, răn đe bằng quân sự sang thực hiện diễn biến hòa bình, xóa bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa bằng các phương thức, thủ đoạn phi vũ trang là chủ yếu. Chiến lược “diễn biến hòa bình” trở thành bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, sức mạnh quân sự giữ vai trò hỗ trợ cho diễn biến hòa bình.
Thời kỳ này, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ngày càng phát triển rộng khắp trên thế giới, tuy nhiên, tình hình nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, một số nước đã phạm khuyết điểm, sai lầm lớn trong thực hiện cải cách, đổi mới dẫn tới từ khủng hoảng kinh tế - xã hội đã đưa đến khủng hoảng về chính trị ngày càng trầm trọng. Theo đó, nhận thấy khó có thể ngăn chặn, chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc được bằng biện pháp quân sự truyền thống, chủ nghĩa đế quốc đã điều chỉnh chiến lược, sử dụng các biện pháp chiến lược phi quân sự là chủ yếu. Diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược toàn cầu ngăn chặn phát triển thành chiến lược diễn biến hòa bình trong chiến lược vượt trên ngăn chặn. Thủ đoạn trong chiến lược chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu như chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, tôn giáo, dân tộc, an ninh - quốc phòng và ngoại giao. Với tiềm lực kinh tế, quân sự và khoa học - kỹ thuật, chủ nghĩa đế quốc chủ trương thực hiện mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và kiềm chế các cường quốc khác.
Thứ ba, giai đoạn đẩy mạnh chiến lược diễn biến hòa bình (từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay).
Sau biến động ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch công khai tuyên bố chuyển hướng chiến lược “kiềm chế” sang chiến lược “mở rộng” với hai nội dung cơ bản: “dân chủ hoá về chính trị” và “tự do hoá về kinh tế”. Vấn đề “nhân quyền” và “dân chủ” được coi là vũ khí lợi hại.
Mặt khác, trong giai đoạn này, chủ nghĩa đế quốc có sự điều chỉnh chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thực hiện chiến lược can dự, tăng cường can thiệp công việc nội bộ nhiều nước bằng các biện pháp cứng rắn, đồng thời đẩy mạnh diễn biến hòa bình và cách mạng màu nhằm gây biến động chính trị - xã hội, tiến hành bạo loạn lật đổ, thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa xã hội và chống phá độc lập dân tộc trên thế giới.
1.2. Bạo loạn lật đổ và mối quan hệ với chiến lược “diễn biến hòa bình”
1.2.1. Khái niệm bạo loạn lật đổ
Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành nhằm lôi kéo quần chúng nhân dân gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền (địa phương hoặc trung ương). Bạo loạn lật đổ mang tính chất đối kháng quyết liệt, một mất một còn giữa cách mạng và phản cách mạng.
Hình thức bạo loạn do lực lượng phản cách mạng tiến hành gồm bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, bạo loạn chính trị kết hợp vũ trang.
1.2.2. Mối quan hệ giữa bạo loạn lật đổ với chiến lược “diễn biến hòa bình”
Diễn biến hòa bình được tiến hành thường là tổng hợp nhiều biện pháp buộc đối phương trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực, nhiều hoạt động chống đối tạo ra tình thế bạo loạn lật đổ chế độ. Do đó, bạo loạn lật đổ là một bộ phận của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Việc đấu tranh chống diễn biến hòa bình phải gắn liền với đấu tranh phòng, chống bạo loạn lật đổ và ngược lại.
Khi tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch làm cho nội bộ nước đối phương suy yếu, rối loạn, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mạnh mẽ, các thế lực thù địch lợi dụng thời cơ đó để tổ chức lực lượng tiến hành bạo loạn lật đổ. Vì vậy, chiến lược “diễn biến hòa bình” là điều kiện tiền đề để thực hiện thù đoạn bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ chế độ chính trị - xã hội của nước đối phương.
Lực lượng trực tiếp thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ là các thế lực thù địch, phản động lưu vong chỉ đạo, hỗ trợ lực lượng phản động trong nước hay lực lượng ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài; những phần tử cơ hội, phản động trong bộ máy lãnh đạo, điều hành đất nước và địa phương, một bộ phận quần chúng nhân dân có tâm trạng bất mãn với chính quyền bị lôi kéo, kích động, mua chuộc… tiến hành chống phá bằng bạo lực có tổ chức nhằm lật đổ chính quyền địa phương hoặc trung ương.
2. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam
2.1. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình”
Mục tiêu chiến lược, nhất quán của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, dần lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Do vậy, các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam toàn diện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều biện pháp, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, tập trung vào một số lĩnh vực sau:
2.1.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa
Các thế lực thù địch đã xác định chống phá về chính trị là khâu then chốt nhằm chuyển hóa chế độ chính trị của Việt Nam theo quy đạo chúng muốn. Các thế lực thù địch thường triệt để lợi dụng những thiếu sót, hạn chế của Đảng, Nhà nước ta nhằm làm giảm, dẫn tới hạ bệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tập trung chống phá ta về lý luận, quan điểm, đường lối hòng xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời khuyến khích những tư tưởng, quan điểm xã hội đối lập, thù địch, những khuynh hướng xã hội lệch lạc, làm chệch định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực hiện ý đồ trên, các thế lực thù địch đã dùng các biện pháp, thủ đoạn như: móc nối, kích động các phần tử phản cách mạng, bất mãn chống lại quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước; tuyên truyền, gieo rắc chủ nghĩa thực dụng, tâm lý hưởng thụ… qua đó từng bước tại ra sự chuyển hóa tư duy, nếp nghĩ theo hướng đối lập với quan điểm, tư tưởng của Đảng; mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo, đầu tư tiền của cho một số văn nghệ sỹ, phóng viên, nhà hoạt động thực tiễn nhằm sử dụng các công cụ báo chí, xuất bản, internet… để thao túng, chi phối các lĩnh vực này nhằm dễ dàng tuyên truyền chống phá ta; tác động đến tư tưởng một bộ phận trí thức trẻ thông qua chiến lược giáo dục, đào tạo như đầu tư thành lập và phát triển một số trường quốc tế tại Việt Nam, thúc đẩy làn sóng du học nước ngoài để có điều kiện tác động ý thức, tiêm nhiễm tư tưởng chống đối cách mạng Việt Nam; tạo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng thành các tổ chức phản động để tiến hành các hoạt động chống phá có tổ chức như khủng bố chính trị, phá rối an ninh, gây bạo loạn…
2.1.2. Lĩnh vực kinh tế
Phá hoại kinh tế là một trong những mục tiêu cơ bản trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chúng chủ trương dùng biện pháp kinh tế làm mũi nhọn, âm mưu thông qua hợp tác kinh tế để can dự vào nội bộ, dùng kinh tế gây sức ép tác động, chuyển hóa chính trị, lái nền kinh tế đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch thường tiến hành thông qua các phương thức, thủ đoạn như: chiếm lĩnh đầu tư, chi phối thị trường, kích thích, thúc đẩy khuynh hướng thị trường tự do, tách khỏi sự lãnh đạo, quản lý của Nhà nước ta; lợi dụng đầu tư, hợp tác và các hình thức khác để cản trở, ép buộc, khống chế, cấm vận, kìm hãm sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thao túng, lũng đoạn, chi phối những ngành kinh tế quan trọng, mũi nhọn của nước ta; cố ý gây ra khủng hoảng kinh tế - xã hội, từ đó gây rối loạn chính trị; lôi kéo, ép buộc cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế thực hiện các chính sách kinh tế theo ý đồ của chúng…
2.1.3. Lĩnh vực tôn giáo, dân tộc
Tôn giáo, dân tộc là vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa hết sức phức tạp và nhạy cảm. Lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc chống chủ nghĩa xã hội là âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Thực chất của hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc là việc các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta, lợi dụng tính chất phức tạp, nhạy cảm về chính trị, xã hội để đẩy một số tôn giáo, dân tộc vào hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, tạo khủng hoảng về chính trị, xã hội, làm suy yếu tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc được các thế lực thù địch sử dụng các âm mưu, thủ đoạn như: tuyên truyền xuyên tạc chính sách, pháp luật về tôn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước ta; tăng cường phát triển thế và lực, mở rộng tầm ảnh hưởng của các tôn giáo; kích động chia rẽ, gây mâu thuẫn, xung đột giữa các tôn giáo, dân tộc nhằm gây mất ổn định chính trị, tạo cớ gây sức ép, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước ta, kêu gọi sự can thiệp của quốc tế; lợi dụng, lôi kéo, tập hợp lực lượng thành các đảng phái, tổ chức chính trị phản động ở một số vùng dân tộc thiểu số, kích động nhân dân đòi thành lập khu tự trị…
2.1.4. Lĩnh vực an ninh - quốc phòng
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, âm mưu và thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chủ yếu là: xuyên tạc, đả kích chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về an ninh - quốc phòng; truyền bá tư tưởng, văn hóa, lối sống phản động trong lực lượng vũ trang làm cho quân đội mất dần bản chất cách mạng; phi chính trị hóa và trung lập hóa quân đội và công an, vô hiệu hóa các lực lượng vũ trang, từ đó loại bỏ lực lượng trọng yếu trong cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; lợi dụng, lôi kéo một số tổ chức quân sự, an ninh quốc tế gây sức ép với Việt Nam, gây mất ổn định an ninh chính trị trong nước, từ đó lợi dụng cơ hội chống phá…
2.1.5. Lĩnh vực ngoại giao
Hoạt động gây sức ép bằng ngoại giao thực chất là việc các thế lực thù địch lợi dụng diễn đàn quốc tế, lợi dụng các mối quan hệ ngoại giao song phương, đa phương để gây áp lực, tạo điều kiện thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” gây rối an ninh, bạo loạn lật đổ.
Núp dưới danh nghĩa ngoại giao thân thiện, các thế lực thù địch hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo chúng muốn, tạo cơ hội chuyển hóa và hòa nhập với chúng; lợi dụng các hình thức đối ngoại, thăm viếng, hội thảo, viện trợ nhân đạo, du lịch… để xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
2.2. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn, điều kiện, quy mô và địa bàn bạo loạn lật đổ
2.2.1. Âm mưu
Với chủ trương lật đổ chính quyền, xóa bỏ vai trò của Đảng Công sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta, các thế lực thù địch chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài kết hợp với một số phần tử cực đoan, bất mãn trong nước, gây rối, kích động ly khai và tôn giáo hóa dân tộc, làm mất ổn định xã hội ở một số vùng, khu vực nhạy cảm, những trung tâm kinh tế - xã hội của Việt Nam, nhằm từng bước lật đổ chính quyền ở địa phương và trung ương.
2.2.2. Thủ đoạn
Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch có thể sử dụng đó là: kích động sự bất bình của quần chúng, dụ dỗ và mua chuộc nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho lực lượng phản động trà trộn hoạt động đập phá, khống chế cơ quan nhà nước; tìm cách để mở rộng phạm vi, quy mô lực lượng khi thực hiện bạo loạn; kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí, lực lượng quân sự từ nước ngoài; lợi dụng phần tử phản động ở một số tôn giáo kích động giáo dân đấu tranh; kích động đồng bào dân tộc ở một số vùng nhạy cảm đòi ly khai; kích động khiếu kiện đông người, kéo dài gây mất ổn định chính trị - xã hội…
2.2.3. Điều kiện, quy mô và địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ
- Điều kiện xảy ra bạo loạn lật đổ: Một là, các thế lực thù địch xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang phản động; bí mật tạo dựng được “ngọn cờ” để chỉ đạo, điều hành, kích động, lôi kéo quần chúng tham gia; có sự liên kết, phối hợp giữa bọn phản động trong và ngoài nước; Hai là, điều kiện xã hội của ta còn một số vấn đề như: mâu thuẫn nội bộ chưa được giải quyết thỏa đáng bị địch lợi dụng, khoét sâu, chuyển hóa từ mâu thuẫn nội bộ trở thành mâu thuẫn đối kháng, từ đó kích động họ lôi kéo quần chúng đấu tranh phục vụ mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch.
- Quy mô, địa bàn có thể xảy ra bạo loạn lật đổ: Địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng, nhưng tập trung chủ yếu ở các trung tâm chính trị, kinh tế của đất nước, nơi nhạy cảm về chính trị với quy mô từ nhỏ đến vừa và lớn, có thể lan rộng ra các khu vực khác.
3. Những vấn đề cơ bản về phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay
3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm giữ vững sự ổn định chính trị trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta đã đề ra đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Về mục tiêu, Đảng ta đã khẳng định: “… kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Tiếp đó, “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”.
3.2. Quan điểm chỉ đạo
Trong phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chúng ta cần nắm vững một số quan điểm sau:
- Kiên định, giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh toàn dân với vai trò nòng cốt là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
- Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm an ninh quốc gia, đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ.
- Chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ phải nhằm kết hợp ngăn ngừa và đối phó thắng lợi các tình huống chiến lược về quốc phòng - an ninh có thể xảy ra.
- Nắm vững pháp luật, chủ động, kiên quyết trấn áp các phần tử phản động; giải quyết, xử lý các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh không để địch lợi dụng kích động biểu tình, bạo loạn.
3.3. Phương châm cơ bản
- Kết hợp chặt chẽ giữa phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ với việc củng cố cơ sở của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, dân chủ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kết hợp giữa các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn những yếu tố đe dọa trực tiếp đến sự ổn định chính trị, xã hội với các giải pháp cơ bản, chiến lược; bảo đảm không ngừng tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
- Phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ cần kết hợp nhuần nhuyễn, chủ động, sáng tạo trong đường lối đối nội và đối ngoại; khắc phục, giải quyết các nhân tố, nguy cơ bên trong đồng thời ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, nhân tố tác động từ bên ngoài.
- Khi bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp các biện pháp, các mặt đấu tranh; xử lý kiên quyết, nhanh chóng, không để lan rộng, kéo dài; kiểm soát, kiểm tỏa, vô hiệu hóa hoạt động chống đối của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống.
4. Tuổi trẻ Ngành Tư pháp chủ động, kiên quyết trong phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay
Có thể khẳng định, đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch là nội dung quan trọng và cấp bách của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do vậy, với chuyên môn, nghiệp vụ được trau dồi qua quá trình học tập và công tác, với bản lĩnh chính trị được tôi rèn qua nhiều thử thách, đội ngũ công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần chủ động, kiên quyết và vững vàng cả về nhận thức và hành động để phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, cần thấm nhuần tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Tư duy mới của Đảng về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới thể hiện cụ thể và sâu sắc trên tất cả những vấn đề cơ bản của sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tuổi trẻ Ngành Tư pháp cần chủ động học tập, nhận thức rõ tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới nhằm phòng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay ở một số khía cạnh sau:
- Bảo vệ Tổ quốc trong một chỉnh thể thống nhất: bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tư duy của Đảng thể hiện rõ tính chất toàn diện, thống nhất của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, không thể tách rời giữa các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ gắn bó chặt chẽ với bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng bao hàm cả bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau. Đây là sự thể hiện kiên định về con đường và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tư duy của Đảng.
- Tư duy về đối tác và đối tượng là một nét nổi bật trong tư duy của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nhận thức và xử lý vấn đề đối tác và đối tượng là vấn đề rất phức tạp và đặc biệt nhạy cảm trong bối cảnh mới của sự mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế hiện nay. Trong hoạch định chiến lược, sách lược cách mạng, đó là vấn đề sách lược đấu tranh; trong các hoạt động thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế, đó là nghệ thuật tranh thủ và phân hóa lực lượng, tập hợp lực lượng cho cách mạng; trong các biện pháp đấu tranh, đó là cách thức (phương thức) sử dụng lực lượng, xử lý tình huống để không rơi vào bị động, bất ngờ. Nguyên tắc phân biệt và xử lý, giải quyết vấn đề đối tác - đối tượng được Đảng ta xác định: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong tình hình mới, cũng cần có cách nhìn biện chứng hơn: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của chúng ta.
Kế thừa và phát triển tư duy từ các lần đại hội trước, tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương hướng, nhiệm vụ trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta là: “… đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…”. Đây là quan điểm tiến bộ trong nhận thức của Đảng ta trong hội nhập quốc tế và tư duy về đối tác - đối tượng của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
- Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp. Mục tiêu trọng yếu trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta khẳng định, đó chính là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế…”. Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc chính là khẳng định tầm quan trọng đặc biệt, vai trò quyết định của việc phát huy nội lực, nhân tố bên trong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một khi làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm rạn nứt, phá hủy khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là nguyên nhân dẫn đến suy yếu sức mạnh quốc gia, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, là nguy cơ dẫn đến mất nước. Do vậy, muốn tăng cường khả năng quốc phòng, gia tăng sức mạnh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống thì vấn đề cơ bản quyết định là phải củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với việc xây dựng và đào luyện đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ cả về phẩm chất và lối sống, khắc phục tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, khắc phục triệt để những biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, xa rời lý tưởng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Đảng ta đã khẳng định: “Phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. Đây là nguyên tắc cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và là nhất quán của Đảng ta.
- Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang vừa là yêu cầu, nội dung vừa là tư tưởng, phương châm chỉ đạo của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới. Tư duy của Đảng là không tách rời phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang, cũng không tuyệt đối hóa một phương thức nào dù trong tình huống có bạo loạn lật đổ hay trong điều kiện hòa bình. Yêu cầu của việc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang là phải tạo nên sức mạnh tổng hợp cao nhất, tạo sự tác động, hỗ trợ lẫn nhau tốt nhất nhằm phục vụ thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, triệt phá mọi âm mưu, thủ đoạn bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Thứ hai, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần nhận thức và kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm thất bại âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Hiện nay, không ít cán bộ, đảng viên, nhất là một bộ phận công chức, viên chức trẻ có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên. Do vậy, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây chính là tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống suy thoái về đạo đức, tư tưởng chính trị, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đối với từng đảng viên, công chức, viên chức; tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chủ động, sáng tạo trong vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Thứ ba, chủ động học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng trong phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay kết hợp với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các nội dung trên.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay có nhiều đổi mới. Do vậy, bản thân mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần tích cực, chủ động trong học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Quá trình học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng đó giúp mỗi người trong chúng ta nhận thức, đánh giá đúng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, ứng phó chủ động trong mọi tình huống trên thực tế; vận dụng sáng tạo, linh hoạt các biện pháp phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ phù hợp với nhiệm vụ, chức trách được giao.
Ngoài ra, việc học tập trau dồi kỹ năng phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ giúp cho bản thân mỗi công chức, viên chức tôi rèn các phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; không để bị mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc bởi lợi ích chính trị, kinh tế phản động, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm vào bản thân cán bộ, công chức và tổ chức đảng nơi công tác.
Cùng với việc học tập, trau dồi kiến thức, bản thân mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần thường xuyên chú trọng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và phát huy sức mạnh tập thể nhằm phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ. Thực hiện tốt công tác này, nhận thức của quần chúng nhân dân nơi cư trú, sinh hoạt, học tập, công tác về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ được nâng lên, từ đó góp phần đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá. Đồng thời, đây là cơ sở để tạo ra sự đồng thuận, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của hệ thống chính trị và nhân dân.
Công chức, viên chức trong các cơ sở đào tạo của Ngành Tư pháp cần có phương pháp, cách thức giáo dục phẩm chất chính trị, kiến thức chuyên môn pháp lý; tăng cường giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho thế hệ học sinh, sinh viên nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam; ý thức cảnh giác không để bị lợi dụng dưới các chiêu bài kích động, dụ dũu, mua chuộc, ép buộc; khơi dậy lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trong công tác xây dựng và thi hành văn bản pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng, củng cố vững chắc khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị.
Theo quy định của pháp luật, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi thường nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được coi là những nhiệm vụ trọng yếu.
Một trong những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch khi thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là thủ đoạn lũng đoạn chính sách, cài cắm chính sách, lợi dụng chính sách, pháp luật để đả kích, bôi nhọ, gây mâu thuẫn, mất đoàn kết khi thi hành. Thủ đoạn của chúng trong trường hợp này có thể dưới các hình thức như tài trợ để đánh giá tác động của chính sách lệch lạc, sai sự thật; mua chuộc cán bộ, công chức, nhà hoạt động thực tiễn để cài cắm các điều khoản thiếu khoa học hoặc phản biện chính sách, từ đó lợi dụng để kích động một số đối tượng gặp bất lợi khi chính sách được ban hành; lợi dụng công cụ “nhân quyền”, “dân chủ”, công cụ kinh tế khác để phản bác, gây ảnh hưởng đến các cơ quan, đơn vị có chức năng soạn thảo, thẩm tra, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật… Do vậy, mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt để có thể nhận diện về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng trong hoạt động xây dựng, ban hành và thi hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ năm, coi trọng công tác tham mưu, đề xuất, kiến nghị xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những giải pháp cơ bản phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ. Đại hội XII của Đảng trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2011 - 2015 đã đề ra mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016 - 2020 là: “Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng xuất, hiệu quả và sức cạnh tranh… Phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Do vậy, mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần chủ động đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; hoàn thiện chính sách, khung khổ pháp lý phát triển kinh tế hướng đến mục tiêu kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; thực hiện công bằng, tiến bộ trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, tích cực góp phần xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân gắn liền với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh nhằm đấu tranh có hiệu quả trong phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ.
Về bản chất, nền quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, an ninh kiểu mới với quan điểm chủ đạo lấy nhân dân làm gốc, thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt và Nhà nước quản lý, điều hành tập trung thống nhất. Do đó, mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần nâng cao trách nhiệm của bản thân đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Vận động, tuyên truyền gia đình, đồng nghiệp, người dân tích cực góp phần xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân gắn liền với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh nhằm đấu tranh có hiệu quả trong phòng, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Thứ bảy, đấu tranh mạnh mẽ với những luận điểm phản động, sai trái của các thế lực thù địch trên các ấn phẩm báo chí, xuất bản; kiên quyết không để địch lợi dụng báo chí, xuất bản Ngành Tư pháp để hoạt động tuyên truyền, chống phá ta trên lĩnh vực chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Hoạt động báo chí, xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, là một trong những công cụ đắc lực để các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Âm mưu và thủ đoạn thường thấy là viết bài, xuất bản sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đả kích, phủ nhận thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của ta, tuyên truyền lối sống thực dụng tới một bộ phận thanh thiếu niên; triệt để khai thác các vấn đề, sự kiện mà ta có thiếu sót theo lăng kính người viết, được lặp đi lặp lại nhiều lần để đả kích, thổi phồng dư luận; thành lập các tổ chức báo chí phản động, lợi dụng một số nhà báo, văn nghệ sĩ, đối tượng bất mãn chế độ viết bài tuyên truyền, gây áp lực với chính quyền, lôi kéo dư luận quốc tế hòng can thiệp công việc nội bộ của Việt Nam…
Với vai trò chủ yếu của báo chí, xuất bản của Ngành Tư pháp là tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền thành tựu chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước; phổ biến, giáo dục pháp luật; đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật… nên đây cũng là mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch khi thực hiện diễn biến hòa bình. Do vậy, mỗi công chức, viên chức trẻ của Ngành Tư pháp công tác trong lĩnh vực báo chí, xuất bản cần nhận thức rõ các âm mưu, thủ đoạn nêu trên của các thế lực thù địch; học tập, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, chuyên môn, rèn dũa nhãn quan chính trị nhạy bén, chủ động, tích cực trong đấu tranh phòng chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, đặc biệt là đối với đội ngũ phóng viên, biên tập viên - những người trực tiếp kiểm duyệt đầu vào nội dung tin, bài, ấn phẩm của báo chí, xuất bản.
Thứ tám, bản thân mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ý thức dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là cội nguồn, là “bệ đỡ” của việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ý thức bảo vệ Tổ quốc không phải là một cái gì chung chung trừu tượng mà bao giờ cũng phải được thể hiện cụ thể ở hành vi bảo vệ Tổ quốc, ở việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung của mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp. Mặt khác, mỗi người trong chúng ta cần ý thức rõ, có giữ vững được độc lập dân tộc thì chúng ta mới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đồng thời, chỉ có thể đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập dân tộc mới được bảo đảm vững chắc. Sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là thuộc tính của cách mạng Việt Nam, là đặc điểm cơ bản phản ánh nội dung cốt lõi và bản chất của ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Thứ chín, tích cực, chủ động chăm lo, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội ở nơi công tác cũng như nơi cư trú của mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp.
Đây chính là quan điểm lấy dân làm nền tảng mà Đảng ta đã quán triệt. Chăm lo xây dựng cơ sở vững mạnh để bảo đảm vững mạnh từ gốc. Mỗi xã, phường, thị trấn, cơ quan là một “pháo đài” vững chắc, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là một chiến sỹ, mỗi gia đình là một điểm tựa.
Mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần nâng cao ý thức xây dựng cơ quan, đơn vị đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, tránh để kẻ thù lợi dụng sơ hở, mâu thuẫn trong đơn vị để thực hiện kích động, chống phá. Coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, khắc phục kịp thời nguy cơ phân hóa, mâu thuẫn nội bộ, các biểu hiện suy thoái, phai nhạt lý tưởng. Có liên hệ mật thiết với nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể, báo chí, truyền thông… để tạo sức mạnh tổng hợp trong việc phát hiện các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chính sách, pháp luật.
Mặt khác, mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp ngoài các nhiệm vụ chuyên môn ở cơ quan, đơn vị cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của bản thân với cơ sở nơi cư trú. Thông qua việc sinh hoạt, giao lưu với quần chúng nhân dân nơi cư trú để thực hiện công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh; ủng hộ các hoạt động đoàn thể ở địa phương; tích cực tuyên truyền, phổ biến những kinh nghiệm, kiến thức được trau dồi về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; ý thức cảnh giác với những vấn đề, sự kiện chính trị nhạy cảm, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân tránh bị kẻ địch lôi kéo, mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.
Thứ mười, quán triệt và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong từng công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp, đặc biệt đối với những người làm công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Đối với các hoạt động đối ngoại phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội XII đã quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân… Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước”.
Đại hội XII yêu cầu: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”.
Thứ mười một, mỗi công chức, viên chức Ngành Tư pháp phải tích cực rèn luyện về đạo đức, tác phong của người cán bộ, đảng viên.
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người và toàn xã hội. Đối với mỗi cá nhân, hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong, đồng thời chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người xung quanh. Đạo đức gồm ý thức đạo đức và hành vi đạo đức, thể hiện trong các quan hệ đạo đức. Hoạt động xã hội của mỗi con người phụ thuộc nhiều vào những quan hệ lợi ích nên có nhiều trường hợp hành vi đạo đức khác biệt với ý thức đạo đức; ý thức đạo đức đúng nhưng hành vi đạo đức vẫn sai.
Đại hội XII của Đảng đã xác định nhiệm vụ: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”. Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Xây dựng Đảng về đạo đức chính là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng, mua chuộc của các thế lực thù địch. Do vậy, mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần rèn luyện, bồi dưỡng những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cách mạng, ứng xử có văn hóa ở các môi trường khác nhau; nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái với những yêu cầu của đạo đức chung trong xã hội. Nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, của cơ quan, đơn vị mình gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm.
Thứ mười hai, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch không để bạo loạn xảy ra; có phương án đối phó nhanh nhạy, xử trí khéo léo khi có bạo loạn xảy ra.
Mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp cần nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng để kịp thời phát hiện, vô hiệu hóa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch tiến hành bạo loạn lật đổ. Khi có bạo loạn xảy ra cần nhanh chóng có hành động góp phần cô lập những điểm bạo loạn, ngăn chặn không cho lan rộng, vận động, thuyết phục giải tán đám đông; cô lập kẻ cầm đầu; bảo vệ các mục tiêu trọng yếu về chính trị, quân sự, kinh tế; biết phát huy sức mạnh của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, lực lượng tại chỗ để chống phá địch; tuân thủ đúng pháp luật khi xử lý; hành động kiên quyết nhưng không manh động, linh hoạt các hình thức đấu tranh; kết hợp đấu tranh chính trị, ngoại giao. Sau khi đập tan bạo loạn phải góp phần nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định mọi mặt đời sống xã hội.
Như vậy, có thể khẳng định, phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc dưới hình thức mới, sẽ còn lâu dài và nhiều gian khổ. Mỗi công chức, viên chức trẻ Ngành Tư pháp phải thường xuyên quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ đã đề ra; phải làm tốt công tác tham mưu và trực tiếp cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, hành động kịp thời có hiệu quả, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
ThS. Nguyễn Văn Huy
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017),
Tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho Đảng viên mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1994),
Quyết tâm làm thất bại chiến lược “diến biến hòa bình” của các thế lực thù địch (lưu hành nội bộ), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Hiền (chủ biên, 2011),
Hỏi - đáp về “diễn biến hòa bình” và “cách mạng màu”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Vũ Hiền - Trần Quang Nhiếp (chủ biên, 2000),
Báo chí trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Mạnh Hưởng (2012),
Góp phần chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam (2012),
Giáo trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh (đối tượng 4A), Hà Nội.
PGS.TS. Vũ Hiền - PGS.TS. Trần Quang Nhiếp (chủ biên, 2000), Báo chí trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 11.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 147-148.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 148.
Xem thêm: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hưởng (2012), Góp phần chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 11-29; tr. 55-67.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 153.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 147.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 150-151.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 271-272.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 153.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 154-155.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 202.