Đặc điểm, nội dung và các điều kiện bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự

Ngày đăng : 20/09/2018
Xem cỡ chữ In trang

Như đã phân tích trong bài trước, có thể định nghĩa: Quyền của người được THADS là khả năng mà người được THADS có thể khôi phục, thụ hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp của mình đầy đủ và toàn diện nhất, bao gồm cả những quyền, lợi ích hợp pháp được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án và cả những quyền trong quá trình tổ chức thi hành án [1]. Ở bài viết này, tác giả sẽ tập trung làm rõ đặc điểm, nội dung và các điều kiện bảo đảm quyền của người được THADS, từ đó, giúp bạn đọc có thêm một góc nhìn tương đối bao quát về quyền của người được THADS.

1. Đặc điểm quyền của người được thi hành án dân sự
Cũng như bất kỳ một quyền con người nào khác, quyền của người được THADS có một số đặc điểm cơ bản thể hiện ở các thuộc tính của nó, cụ thể:
- Tính phổ biến: được thể hiện ở chỗ quyền của người được THADS là những gì vốn có của người được THADS và được áp dụng bình đẳng cho tất cả người được THADS mà không phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì như: chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần xuất thân,… [2, tr.27].
- Tính không thể tước bỏ: quyền của người được THADS cũng là quyền con người, đã là quyền con người thì không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước, trừ một số trường hợp được pháp luật quy định [2, tr.28].
- Tính không thể phân chia: Các quyền của người được THADS đều quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị hơn quyền nào. Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng bối cảnh, giai đoạn cụ thể có thể ưu tiên thực hiện hoặc được chú ý bảo vệ một số quyền nhất định [2, tr.28].
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: các quyền của người được THADS không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác [2, tr.28].
- Thuộc về những giá trị xã hội biểu hiện cho một nền tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng) trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân.
- Là giá trị xã hội đặt ra nghĩa vụ đối với tất cả mọi người phải tôn trọng bởi họ có thể vi phạm.
- Là giá trị xã hội được ghi nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật.
Bên cạnh các đặc điểm cơ bản trên, quyền của người được THADS còn có các đặc điểm sau:
- Chủ thể được bảo vệ quyền là người được THADS, đó là cá nhân, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được thi hành.
- Đối tượng được bảo vệ là các quyền của người được THADS: quyền tài sản, quyền nhân thân, quyền tiếp cận thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được bồi thường, quyền được chuyển giao quyền,...
- Mục đích bảo vệ là để khôi phục, thụ hưởng quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án và cả những quyền trong quá trình tổ chức thi hành án.
2. Nội dung quyền của người được thi hành án dân sự
Các quyền của người được THADS có ý nghĩa quan trọng đối với người được THADS, bởi lẽ, trong quan hệ dân sự trước đó, họ đã là chủ thể bị xâm phạm quyền. Khi thực hiện quyền khởi kiện dân sự mục đích cuối cùng của họ cũng chỉ là để đòi lại quyền, lợi ích chính đáng mà mình được hưởng. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào bên thua kiện (trở thành bên người phải thi hành án) cũng ngay lập tức thi hành bản án, quyết định của Tòa án một cách tự nguyện và nhanh chóng đúng trong thời hạn được ấn định. Có không ít trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức có những hành vi can thiệp, cản trở, gây trở ngại hoạt động thi hành án, làm trái pháp luật trong thi hành án… Đây được coi là các hành vi vi phạm trong hoạt động THADS, được hiểu chung nhất là hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý, vi phạm các quy định của pháp luật THADS và cản trở, gây trở ngại cho hoạt động THADS, gián tiếp gây trở ngại cho việc tiếp cận các quyền của người được THADS. 
Mặc dù, trong quá trình tổ chức thi hành án, hoạt động THADS có lúc, có nơi, có vụ việc cũng còn tình trạng xâm phạm đến quyền của người phải thi hành án. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, Học viên chỉ tập trung vào phân tích quyền của người được thi hành án, theo đó, áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền, có thể chia quyền của người được THADS thành hai nhóm:
- Thứ nhất, quyền, lợi ích hợp pháp đối với những nội dung mà bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên có hiệu lực pháp luật, theo đó bao gồm: quyền nhân thân, quyền tài sản,...
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác [4, Điều 24]. Bên cạnh đó, từ Điều 26 đến Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định các quyền nhân thân, cụ thể: quyền có họ, tên; quyền thay đổi họ, tên; quyền xác định, xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền có quốc tịch; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác; quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính; quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình. Trong các Điều Luật này cũng quy định thêm rất nhiều quyền nhân thân, ví dụ như: Điều 39 Bộ luật dân sự quy định Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình, cụ thể: (1) Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình. (2) Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan [4, Điều 39].
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác [4, Điều 115]. Như vậy, một mặt, quyền tài sản là tài sản; mặt khác, một quyền tài sản phải bao gồm hai yếu tố: trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Bên cạnh đó, các quyền không thể được chuyển nhượng trong giao lưu dân sự, do gắn liền với nhân thân của người có quyền, dù trị giá được bằng tiền (như quyền được cấp dưỡng, quyền hưởng trợ cấp hưu trí,…) là quyền nhân thân gắn liền với tài sản.
Đây là nhóm quyền đã bị xâm phạm trước khi có bản án, quyết định của Tòa án hoặc phát sinh trong quá trình Tòa án giải quyết, xét xử. Tựu chung lại là hoạt động THADS nhằm mục đích khôi phục, bảo vệ nhóm quyền này của người được THADS.
- Thứ hai, quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, theo đó bao gồm: quyền tiếp cận thông tin, quyền về tài sản, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được bồi thường trong hoạt động THADS,…
Các quyền chính trị bao gồm công lý trung lập trong pháp luật, chẳng hạn như quyền lợi của người được THADS, trong đó có quyền được tổ chức thi hành án công bằng; pháp luật đúng thủ tục và quy trình; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền đòi bồi thường hoặc khắc phục thiệt hại xuất phát từ lỗi của Chấp hành viên, cơ quan THADS hoặc các cá nhân, tổ chức có liên quan;...Đây là nhóm quyền phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện theo phán quyết của Tòa án, hay còn gọi là hoạt động THADS.
Khiếu nại, tố cáo là một trong các quyền chính trị cơ bản của công dân, được ghi nhận trong văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, luật. Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. 
Luật THADS cũng quy định: Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [5, Điều 10]. Bên cạnh đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định rõ về Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS [3, Điều 38], về Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS [3, khoản 2 Điều 40]. Theo đó, xuất phát từ sai phạm của công chức, Chấp hành viên cơ quan THADS mà nhiều trường hợp, quyền của người được THADS đã bị xâm phạm.
Quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường trong hoạt động THADS là một trong số các phương thức để đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nhân dân) thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và thực hiện quyền làm chủ của mình, hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là khôi phục quyền của người được THADS trước và trong quá trình tổ chức THADS, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền con người.
3. Các điều kiện bảo đảm quyền của người được thi hành án dân sự
Quyền con người là một khái niệm phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý…, phụ thuộc vào tổng thể của rất nhiều điều kiện khác nhau. Các điều kiện để thực hiện quyền con người bao gồm như điều kiện chính trị, điều kiện pháp lý, điều kiện kinh tế, điều kiện văn hóa, xã hội,… Đối với quyền của người được THADS, đây là một phạm trù thuộc về quyền con người, do đó cũng chịu ảnh hưởng bởi những điều kiện nêu trên, cụ thể:
Thứ nhất, điều kiện chính trị
Điều kiện chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ với quyền của người được THADS nói riêng, cũng như quyền con người nói chung. Chính trị và quyền con người là những yếu tố thuộc về phạm trù kiến trúc thượng tầng và có mối quan hệ đồng đẳng, qua lại với nhau. Có thể thấy tính chất của chính trị, văn hóa chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền ảnh hưởng rất lớn, có tính chất quyết định đối với sự phát triển quyền con người. Vì vậy, suy cho đến cùng, nói đến chính trị là nói tới nhận thức về con người, thái độ với con người.
Như đã nêu ở trên, quyền con người và chính trị là những yếu tố thuộc về phạm trù kiến trúc thượng tầng và có mối quan hệ đồng đẳng, qua lại với nhau. Một chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ thường có mục tiêu vì con người, lấy con người làm trung tâm để xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tạo mọi điều kiện tốt nhất bảo vệ và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người, trong đó có quyền của người được THADS.
Mặt khác, tham gia vào quá trình thúc đẩy dân chủ, quyền con người còn phải kể đến các tổ chức, đoàn thể xã hội, giới truyền thông và toàn dân thông qua vai trò giám sát, phản biện xã hội của các thiết chế này.
Từ nghĩa đó, việc thực hiện quyền con người nói chung, quyền của người được THADS nói riêng không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Thứ hai, điều kiện pháp lý
Pháp luật đóng vai trò quan trọng hàng đầu, là cơ sở để quyền con người, trong đó có quyền của người được THADS được ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm sự trên thực tế. Pháp luật và nhà nước, hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ sắc bén để bảo vệ quyền con người, thể hiện ở các quy định về quyền con người trong pháp luật và được bảo vệ, bảo đảm thực hiện bằng bộ máy nhà nước. Một nhà nước “của dân, do dân và vì dân” thì pháp luật cũng chính là ý chí, nguyện vọng của người dân. Người dân lập nên nhà nước, xây dựng pháp luật cũng chính là để bảo vệ quyền của mình.
 Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, cùng với bộ máy cưỡng chế, pháp luật sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất cả mọi người [7, tr. 141]. Pháp luật là phương tiện để cụ thể hóa, chính thức hóa và công khai hóa các giá trị xã hội của quyền con người; nếu không được ghi nhận, bảo đảm bằng pháp luật thì quyền con người không có cơ sở pháp lý để thực hiện, khi đó quyền con người chưa trở thành quyền thực sự. Và ngược lại, khi được luật hóa, các quyền đó sẽ mang tính chất bắt buộc và được xã hội công nhận, bảo vệ.
Bên cạnh đó, pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để con người đấu tranh bảo vệ quyền của mình. Quyền của người được THADS có thể bị “xâm phạm lần thứ hai” bởi các chủ thể khác trong xã hội, đặc biệt là cơ quan nhà nước, công chức nhà nước khi thực thi công vụ, bởi hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật có nguy cơ xâm hại đến các quyền con người rất cao. Chỉ có pháp luật, bằng các quy phạm pháp luật quy định chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước mới tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để người được THADS đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền của mình.
Mặt khác, tầm quan trọng của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác (chính trị, kinh tế, văn hóa,…) các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên quy mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy được vai trò của mình trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền của người được THADS.
Thứ ba, điều kiện kinh tế
Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện không thể thiếu để đảm bảo thực hiện quyền của người được THADS trên thực tế. Trình độ phát triển của nền kinh tế bộc lộ qua các chỉ số đánh giá mức độ tăng trưởng, mức độ thu hẹp sự chênh lệch giàu nghèo, mức độ ổn định của chu kỳ tăng trưởng, mức độ an toàn của môi trường kinh tế đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững, mức độ kết hợp phát triển kinh tế với đảm bảo an sinh xã hội… Các yêu cầu này càng đạt được ở trình độ cao thì càng tạo ra cơ sở vật chất thuận lợi cho việc bảo đảm thực thi quyền con người trên thực tế [6, tr. 107].
Thực tế minh chứng, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh tế xã hội phát triển, việc vận động đương sự tự nguyện thi hành án cũng rất thuận lợi. Còn nếu điều kiện tự nhiên khó khăn, kinh tế kém phát triển dẫn tới việc ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân bị hạn chế và rất khó vận động trong việc tự nguyện thi hành án.
Thứ tư, điều kiện văn hóa
Phát triển văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí bảo đảm cho con người được phát triển tự do và toàn diện, tạo điều kiện cho mọi người được độc lập, nghiên cứu nâng cao nhận thức về mọi mặt, trong đó có văn hóa nhân quyền. Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người và bao trùm tất cả các phương diện của đời sống như pháp luật, kinh tế, quyền con người,... Văn hóa là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện.
Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại, nhưng văn hóa thì lại là bản sắc của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do vậy mà ít nhiều văn hóa cũng ảnh hưởng tới nhận thức và thực hiện quyền con người. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi quyền con người thì điều kiện văn hóa phải ngày càng phát triển và thay đổi theo hướng tích cực. Phải hạn chế những tác động tiêu cực của văn hóa, biến đổi nó theo chiều hướng tích cực bằng cách loại bỏ đi những giá trị đã lạc hậu, không phù hợp và đưa vào nó những giá trị mới, phù hợp hơn. Cùng với đó, phải phát huy các tác động tích cực của văn hóa và làm cho nó trở nên phù hợp với các mục tiêu vì con người, với việc bảo đảm quyền con người.
 
ThS. Nguyễn Phúc Đạt
Ủy viên BCH Đoàn cơ sở Tổng cục THADS
 
Tài liệu tham khảo:
1. Xem thêm tại: http://tuoitrebtp.moj.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=69&l=Traodoinghiencuu
2. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2015), Giáo trình lý luận và pháp luật về Quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Quốc hội (2009), Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước số 35/2009/QH12.
4. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 91/2015/QH13.
5. Văn phòng Quốc hội (2014), Văn bản hợp nhất Luật thi hành án dân sự.
6. Viện khoa học xã hội Việt Nam (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ- tên đề tài “Quyền con người ở Việt Nam từ nhận thức lý luận đến hành động thực tiễn”, chủ nhiệm đề tài: GS.TS Võ Khánh Vinh.
7. Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tài liệu giảng dạy lưu hành nội bộ Đại học Huế, Huế.
 

Xem thêm »
Thăm và tặng quà bệnh nhi nghèo
>>Xem tất cả